chương 1 + 2
1
Ta tên là Xà Anh, cũng chính là Xà Anh.
Mùa hè năm 1998, sấm sét cuồng nộ như rồng, mưa dông trút xuống liên miên, nước lũ dâng tràn.
Người trong thôn gọi đó là “rắn hóa giao”, còn trên tin tức sau này thì nói đó là trận đại hồng thủy trăm năm có một lần.
Sau khi lũ rút, bên bờ sông ngoài trại, người ta phát hiện một con mãng xà to bằng thùng nước.
Nó bị sét đánh cháy đen thân thể, dài hơn mười mét, hấp hối chờ chết.
Dân trong trại kéo nhau đi xem náo nhiệt, nói chính con mãng xà này “hóa giao” nên mới dẫn tới thiên tai.
Tuy độ kiếp thất bại, nhưng cũng đã xem như nửa bước hóa thành giao long.
Nhân lúc nó chưa tắt thở, mọi người bàn nhau g.i.ế.c rắn ăn thịt, xem như được nếm “long nhục”.
Lúc đó, Long A Nãi, bà cụ chuyên trị cổ trong trại, vội vàng chạy tới.
Thấy bụng mãng xà còn đang phập phồng, bà đưa tay sờ thử.
Rồi dưới ánh mắt kinh hãi của mọi người, liền rạch bụng rắn, cứu ra một đứa bé bị bao trong lớp màng huyết nhầy nhụa.
Đứa bé đó chính là ta.
Từ đó, mọi người gọi ta là cô bé Rắn.
Về sau, cán bộ hộ tịch nói không có họ “Rắn”, bèn sửa thành Xà Anh.
Mãi đến khi ta cất tiếng khóc, đôi mắt rắn khổng lồ vẫn m.á.u chảy không ngừng kia mới từ từ khép lại.
Người trong trại vốn định mổ thịt ăn “long nhục”, nhưng Long A Nãi ngăn lại:
“Con rắn này mang thai sinh người, đã chứng được đại đạo, không thể ăn.”
Bà là thầy thuốc của Miêu trại, nên có chút uy tín.
Nhờ bà kêu gọi, mọi người mới cùng nhau đào một cái hố lớn bên sông, chôn xác mãng xà.
Còn ta thì được bà bế về nuôi dưỡng.
Vì sinh ra từ bụng rắn khổng lồ, nên mắt ta bẩm sinh đồng tử dọc, rất sợ ánh sáng.
Đến bốn tuổi vẫn tứ chi mềm yếu, không thể đi lại, toàn phải để A Nãi cõng trong chiếc giỏ đeo lưng.
Chưa kể làn da khô nứt, trắng bệch, loang lổ như vảy rắn.
Mỗi khi tới mùa rắn lột xác, da ta lại bong tróc từng mảng, m.á.u me loang lổ, ngứa ngáy đau đớn, khiến ai trông thấy cũng khiếp sợ mà tránh xa.
Long A Nãi quanh năm cõng ta lên núi hái thuốc, cho ta ngâm dược thủy, xông mắt, lại cho uống đủ loại thuốc bổ canxi.
Không biết bà đã tốn bao công sức, cuối cùng mới khiến mắt ta dần dần trông như người thường.
Ta tập đi được vài bước, nhưng chỉ cần đi nhiều hơn một chút là hai chân liền mềm nhũn, chẳng còn chút sức lực.
Dù vậy, hằng năm vẫn có một khoảng thời gian, da ta khô ngứa, tróc từng lớp.
Cơ thể ta vừa sợ lạnh lại sợ nóng:
Lạnh thì chỉ muốn ngủ vùi, nóng thì toàn thân rã rời.
Người trong trại biết ta là Xà Anh, nên ai nấy đều lánh xa.
Thế là cả ngày, ta chỉ quanh quẩn trong nhà sàn, cùng A Nãi nuôi cổ, học y, giã thuốc, nuôi trùng.
2
Năm ta hai mươi tuổi, Hách Hành Xuyên tìm đến Miêu trại tìm gặp A Nãi.
Nhà hắn kinh doanh dược liệu, nghe danh A Nãi từ lâu.
Hắn muốn bà đem bí phương Miêu cổ ra hợp tác, bào chế thành thuốc, sản xuất đưa ra thị trường.
Miêu y cổ dược vốn nổi tiếng thần hiệu.
Người trong trại có bệnh, chẳng ai ra ngoài khám.
Chỉ cần tìm A Nãi xin chút thảo dược, hay uống một bát nước bà sắc, liền khỏi.
Dù là ngoại thương hay gãy xương, chỉ cần A Nãi đắp vài thang thuốc, m.á.u cầm, da mọc, gân cốt lại nối liền.
Nhưng Miêu dược quá mức huyền bí, lại đầy điều kiêng kị.
A Nãi vốn giữ lấy núi rừng, chẳng muốn rời đi, càng không muốn đem phương thuốc truyền đời ra ngoài đổi lấy tiền bạc.
Hách Hành Xuyên lại rất có kiên nhẫn, dứt khoát ở lại trong Miêu trại.
Hắn giúp chúng ta gánh nước, quét dọn, xay thóc, chẻ củi.
Thậm chí còn bám riết theo A Nãi lên núi hái thuốc.
Hắn tuấn tú, miệng lại ngọt, tính tình hào sảng, bị nói nặng mấy câu cũng chỉ cười xòa.
Thời gian lâu dần, A Nãi cũng chẳng nỡ từ chối, để mặc hắn vác giỏ thuốc theo sau.
Mỗi lần trở về, hắn đều mang cho ta một bó hoa dại.
Rõ ràng chỉ là loài hoa dại bình thường, hắn tiện tay nhặt một cái bình gốm mẻ dưới nhà sàn cắm vào, đặt nơi cửa sổ.
Lại trở nên đẹp đến nỗi khiến người ta không rời mắt nổi.
Hắn còn kể cho ta nghe về thế giới bên ngoài, lấy điện thoại cho ta xem đủ thứ mới lạ.
Đôi khi lại ngẩn ngơ nhìn ta, thốt lên:
“Xà Anh, em thật sự là tinh linh của núi rừng, thuần khiết như hoa anh đào, chẳng vướng chút bụi trần nào.”
Ta chỉ mỉm cười.
Lẽ nào ta không muốn sao?
Chỉ là… ta không thể đi lại được.
Khi còn nhỏ, A Nãi còn có thể cõng ta ra ngoài.
Nhưng lớn dần, bà chẳng còn sức.
Ta chỉ có thể nằm bò bên khung cửa, nhìn ngắm núi non xa xăm.
Chỉ bước xuống nhà sàn thôi, đôi chân đã mềm nhũn, eo cũng đau nhức.
Hách Hành Xuyên liền cõng ta lên núi ngắm bình minh, ngồi bên suối ngâm chân.
Lên núi, ngắm hoa lan.
Ra bờ sông, ngắm cá bơi lội.
Mỗi khi da ta khô nứt, toàn thân bong vảy, m.á.u loang lổ, hôi tanh, đau ngứa không chịu nổi…
Hắn ôm ta vào lòng, kể cho ta nghe chuyện Bạch Nương Tử, nói rằng ta là duy nhất trên thế gian này.
Ta dần dần đắm chìm.
Nhưng tiếc rằng cảnh đẹp chẳng dài lâu.
Những cuộc điện thoại liên tiếp từ nhà gọi hắn về, buộc hắn phải rời trại.
A Nãi thấy ta cứ thất thần nhìn ra con đường dẫn ra ngoài, liền khuyên:
“Đàn ông không đáng tin.
Nhất là những kẻ từ ngoài kia như Hách Hành Xuyên, giỏi ăn nói, khéo lấy lòng, càng chẳng thể tin.”
Bà còn cho ta một lời gợi ý:
“Nếu thật lòng muốn giữ hắn, thì hạ cho hắn một con tình cổ, để hắn không bao giờ rời khỏi Miêu trại nữa.”
A Nãi vốn tính cởi mở, không hề ngăn cản ta.
Nhưng ta hiểu, tình cảm có được nhờ hạ cổ… thì sao có thể coi là chân tình?