Chương 2
5
Hai người lần lượt giải thích với tôi.
Bùi Thư Vận nói, tuy cô và Cố Thiêm Trình cùng lớn lên, nhưng thật sự không phải một đôi.
Cố Thiêm Trình thì bảo, anh ta ghét hôn nhân sắp đặt, trước đây vì hôn ước mà đã phiền muộn rất lâu.
“Chị ơi, tối nay em có thể ngủ với chị không?” Bùi Thư Vận khoác tay, sán sát bên tôi: “Em ở đây sợ ngủ một mình lắm.”
Đã nói không phải một đôi thì để họ chung phòng cũng không tiện.
Tôi gật đầu, nhường phòng trống cho Cố Thiêm Trình, lúc đi còn xác nhận lại:
“Anh nói là phản đối hôn nhân sắp đặt, đúng không?”
Cố Thiêm Trình nghiêm túc gật đầu.
“Vậy thì được. Chờ về nhà họ Bùi, tôi sẽ nói với ba mẹ hủy hôn ước.”
Anh ta sững người giây lát, rồi đột nhiên đổi giọng:
“Thật ra… cũng không hẳn phản đối đến thế.”
Tôi nhìn anh ta một lượt, không kìm được hỏi:
“Không lẽ anh thích tôi rồi à?”
Không ngờ tôi nói thẳng như thế, mặt anh ta bỗng đỏ bừng:
“Tôi…”
“Thôi thôi. Anh mới biết tôi được mấy tiếng, nói gì thích với chả không thích. Với lại, ngay cả làng tôi cũng chẳng còn chuyện hôn nhân sắp đặt, không ngờ ở thành phố các anh còn lạc hậu thế. Dù sao đi nữa, tôi rất phản đối.”
Nói xong, tôi dẫn Thư Vận vào phòng, mặc kệ Cố Thiêm Trình đứng đó.
Thư Vận vốn nhiều chuyện, vào chăn rồi còn chưa yên, hỏi tôi:
“Chị Hạ Tư, Cố Thiêm Trình đẹp trai thế, hồi ở trường em có bao nhiêu người thích anh ấy, chị thật sự không động lòng chút nào sao?”
“Tại sao em không động lòng? Hai người quen nhau hơn chục năm còn gì.”
Ai ngờ Thư Vận chớp mắt, nghiêm túc đáp:
“Có chứ. Lúc học cấp hai em đã tỏ tình, lên cấp ba lại tỏ tình lần nữa, nhưng đều bị anh ấy từ chối. Anh ấy nói không thích kiểu con gái như em. Thế nên em cũng không muốn treo cổ trên một cái cây, bỏ từ lâu rồi.”
“Còn chị thì sao? Thật sự không có chút cảm giác nào à?”
Tôi kéo chăn trùm kín đầu cô ta:
“Đừng lắm chuyện nữa, ngủ đi.”
Đúng là dân thành phố, quá nông nổi, làm gì có chuyện tùy tiện đã thích một người.
Mấy ngày sau, tôi đều dẫn họ chơi ở trang trại.
Mấy con dê mẹ vừa sinh mấy con dê con, Bùi Thư Vận thích thú vô cùng, cả ngày ôm ấp không buông.
Cố Thiêm Trình thì muốn học cưỡi ngựa, tôi tận tay dạy. May mà anh ta thông minh, người cũng nhanh nhẹn, vài hôm đã biết phi ngựa.
Rất nhanh, đã đến ngày chuyển đàn.
Tôi gắn thẻ tai cho dê con mới sinh, kiểm tra móng và lông của bò dê.
Cố Thiêm Trình giúp bà nội buộc đồ đạc có thể mang theo trong căn gỗ, chất hết lên lưng lạc đà.
Đường đến đồng cỏ mới không xa, nhưng không có đường, không thể đi xe, mọi thứ chỉ trông vào lạc đà chở.
Ly tách chén bát treo đầy trên lưng, đi một bước lại kêu leng keng, như tiếng chuông lạc đà giữa sa mạc.
Chúng tôi khởi hành từ ba giờ sáng.
Bầy cừu quen đường chuyển đàn, nhưng cái tật tham ăn thì không bỏ, vừa tất tả đi vừa len lén nhấm cỏ xanh ven đường.
Lúc người không chú ý, chúng nhảy bổ qua, gặm vài ngụm, rồi bị tiếng còi của tôi thổi cho sợ, lủi thủi chạy về đàn.
Đường càng lúc càng dốc, ngồi trên lưng ngựa xóc nảy liên hồi, bóng người bị hoàng hôn kéo dài loang loáng.
Vừa qua một rặng núi, tuyết sơn chợt hiện ngay trước mắt.
Bùi Thư Vận ôm dê con trong lòng, ngạc nhiên ngắm cảnh:
“Chị ơi, ở đây đẹp quá, em chẳng muốn về thành phố nữa.”
Chiều xuống, bà nội chọn một bãi cỏ dựng trại.
Bà trông coi đàn, tôi đi nhặt phân bò khô để nhóm lửa.
Thư Vận còn tò mò hơn cả dê, chỗ nào cũng nhìn, chỗ nào cũng thò đầu.
Trước khi đi tôi dặn đi dặn lại, tuyệt đối không được chạy lung tung, nhất là lúc trời tối.
Nhưng lúc tôi vác cả sọt phân bò trở về, từ xa đã nghe tiếng la hét của Thư Vận.
Tim tôi thót lại, vội bật đèn pin cực sáng, rọi về hướng đó.
6
Thư Vận chạy loạn trên thảo nguyên, chẳng biết thế nào lại gặp một con sói.
Gặp sói thì nên tránh đi mới đúng, ai ngờ con ngốc ấy lại tưởng là chó, còn định xán lại sờ lông.
May mà Cố Thiêm Trình phát hiện không ổn, kịp thời gọi cô ta.
Cô ta sợ hãi quay đầu bỏ chạy, qua cây cầu gỗ vì hoảng loạn nên trượt chân, suýt rơi xuống nước.
Cố Thiêm Trình lao đến kéo, ai ngờ lực rơi quá mạnh, Thư Vận được kéo lên, còn anh ta lại ngã nhào xuống.
Dòng suối cuốn anh ta trôi xuống hạ lưu.
Tôi ném đèn pin cho Thư Vận, bảo cô ta về lều, rồi cưỡi ngựa đuổi theo hướng hạ lưu tìm anh ta.
Tôi lớn lên bên suối, quen từng khúc quanh, chẳng mấy chốc đã thấy anh ta người ướt sũng đứng trên bãi cỏ ven dòng, cánh tay bị rách một vết.
“Đập đầu chưa?”
Vừa nghe tiếng tôi, mắt anh ta sáng hẳn, vội đi đến.
“Không sao, chỉ bị rạch ở tay thôi.”
Tôi thở phào, cởi áo khoác ném vào ngực anh ta.
Ban đầu Cố Thiêm Trình còn từ chối:
“Đêm lạnh, chị giữ lại mà mặc.”
“Tôi sợ anh nhiễm lạnh. Đang lúc chuyển đàn, nếu anh bệnh, tôi vừa phải trông đàn vừa phải chăm anh, phiền lắm.”
Anh ta mới lúng túng mặc vào.
Tôi ngồi trên ngựa vươn tay, anh ta hiểu ý, kéo tay tôi rồi nhảy lên ngồi sau.
Tôi thúc ngựa chạy về hướng lều, chợt nghe phía sau vang lên giọng anh ta:
“Hạ tiểu thư, vừa rồi tôi còn nghĩ, không biết làm thế nào quay lại.
Thảo nguyên quá rộng, tôi không biết hướng lều, mà điện thoại chẳng có sóng. May mà chị đến.”
Tôi hờ hững “ừ” một tiếng, vung cương giục ngựa chạy nhanh hơn.
Ai ngờ anh ta lại nói:
“Hạ tiểu thư, chị đừng vội thế. Tôi không lạnh đâu. Ở bên chị… rất ấm.”
Đúng là nói nhảm.
Áo khoác tôi đưa, tôi còn che gió phía trước, sao mà lạnh được.
Người lạnh là tôi đây này. Sau hoàng hôn nhiệt độ giảm đột ngột, tôi chỉ muốn mau về thôi.
Anh ta lại bảo:
“Hạ tiểu thư, giá mà thời gian có thể dừng lại ở khoảnh khắc này.
Chúng ta cưỡi ngựa dưới màn đêm xanh thẫm, vầng trăng sáng treo cao, soi cả núi tuyết rực rỡ.
Thành phố luôn thúc ép tôi chạy, nhưng thảo nguyên dạy tôi dừng lại, lắng nghe tiếng gió.”
Còn gió với chả gió. Tôi gần như bị gió thổi đến ngốc luôn rồi.
Nhưng tôi không nói, mở miệng là gió lại ùa vào.
“Tiểu Tư.” Anh ta bất chợt nghiêm túc gọi tên tôi:
“Có một luồng sáng rọi xuống người tôi, không phải ánh trăng, cũng chẳng phải sao. Chị biết là gì không?”
Tôi ngẩng lên nhìn quanh, cả thảo nguyên đen thui, đèn còn chẳng có, lấy đâu ra ánh sáng.
“Là chị. Khoảnh khắc chị xuất hiện, giống như một vệt sáng xé trời lao đến.”
Tôi vốn không định chửi, nhưng cuối cùng không nhịn được, thấp giọng mắng:
“Đồ ngốc.”
Trong lều, bà nội đã chuẩn bị sẵn cơm nóng trà nóng.
Trên lưng lạc đà có thuốc men, tôi lấy cồn i-ốt và bông tăm, giúp anh ta xử lý vết thương.
Miệng anh ta nói không sao, nhưng vết cắt sâu, máu vẫn chưa ngừng.
Lúc bôi thuốc rõ ràng rất đau, anh ta vẫn mím môi im lặng, còn cười với tôi:
“Chị đừng lo lắng quá, không sao đâu.”
Bùi Thư Vận thì đầy áy náy, xin lỗi liên tục, nói toàn do cô ta gây phiền toái.
Tôi phẩy tay, bảo họ mau nghỉ.
“Còn chị?” Cố Thiêm Trình hỏi.
“Tôi với bà nội phải thay nhau canh cừu. Nhỡ mất một con, thiệt hại mấy nghìn, mấy vạn chứ chẳng ít.”
Anh ta không chịu đi:
“Bà đã lớn tuổi, nên ngủ ngon. Tôi sẽ thay chị trực.
Tôi canh nửa đêm, chị canh nửa còn lại. Đến giờ tôi gọi chị dậy.”
Tôi thấy có lý, dặn đi dặn lại:
“Nhớ ba giờ sáng phải gọi tôi.”
Cố Thiêm Trình miệng thì đồng ý, nhưng chẳng gọi.
Sáng hôm sau, tôi bị bà nội lay dậy, trời đã sáng rõ.
Bà chỉ về phía đối diện, nơi một người suốt đêm không ngủ, lúng túng chạy theo bầy cừu, nhắc tôi nhìn.
Tôi nheo mắt, thấy Cố Thiêm Trình đang vung roi hò hét, đuổi con này lại thì con khác chạy, bận tối mày tối mặt.
“Cậu ta thương con, thấy con ngủ ngon, không nỡ gọi dậy, nên gắng thức cả đêm. Thằng nhỏ này, cũng được lắm.”
Tôi khoanh tay sau lưng, gật đầu:
“Xem ra đàn ông thành phố da dẻ mỏng manh, cũng có chỗ đáng giá.”
Lời vừa ra khỏi miệng đã bị Cố Thiêm Trình nghe thấy.
Anh ta quay lại, cười với tôi:
“Tiểu Tư, từ nay chị cứ ngủ, ban đêm canh cừu để tôi lo.”
Tôi nhớ đến lúc mới gặp, anh ta khoác áo choàng, đeo kính râm, trông như công tử quý tộc.
Giờ quần thể thao xám bụi mù, cười hềnh hệch, chẳng khác gì con trai nhà nông.
Nhưng rất nhanh, Cố Thiêm Trình không còn cười nổi nữa.
7
Ngày hôm sau tiếp tục lên đường, chúng tôi gặp Nuerjiang cũng đang chuyển đàn.
Anh ấy lớn hơn tôi ba tuổi, thân hình cao to vạm vỡ, cơ bắp cuồn cuộn.
Đúng lúc cùng đường, anh mời tôi đi chung.
Thêm một người thì thêm một phần chăm lo, tôi vui vẻ đồng ý.
Nuerjiang là người lắm lời, suốt quãng đường đi kè kè bên tôi, thao thao bất tuyệt kể đủ chuyện trong vòng trăm dặm quanh đây.
Nhà ai mất hai con ngựa, con dâu nhà ai muốn tái giá, rồi nhà nào vừa sinh một cặp song sinh xinh xắn.
Không biết có phải ảo giác không, tôi luôn cảm thấy Cố Thiêm Trình cứ liếc về phía chúng tôi.
Tai tôi rất thính, vừa uống trà nóng mà người dân ở trạm dừng đưa, vừa nghe thấy Cố Thiêm Trình và Bùi Thư Vận ở không xa đang thì thầm.
“Em thấy anh với gã kia, ai đẹp trai hơn?”
Bùi Thư Vận suy nghĩ một lát, rồi nghiêm túc trả lời:
“Không cùng kiểu. Dù ngũ quan anh đẹp hơn, nhưng anh ấy có nét đẹp hoang dã, không bị quy củ trói buộc, khiến người ta chẳng thể rời mắt.”
Cố Thiêm Trình thoáng buồn, một lúc sau lại hỏi:
“Thế em nghĩ Hạ Tư thích kiểu nào hơn?”
“Cái này còn phải hỏi sao?” Bùi Thư Vận nhìn anh như nhìn thằng ngốc:
“Chị lớn lên ở thảo nguyên, tất nhiên thích trai thảo nguyên rồi.
Anh thì trắng trẻo thư sinh, một cái nhìn đã biết không phải gu của chị.”
Cố Thiêm Trình im lặng.
Dù tôi không quay đầu, cũng cảm giác được ánh mắt u ám phía sau.
Nuerjiang khéo tay, trước bữa trưa bảo muốn bện cho tôi một vòng hoa cỏ.
Mấy động tác thoăn thoắt, đã đưa cho tôi.
Tôi cúi xuống, anh ta giúp tôi đội lên đầu.
Cố Thiêm Trình nhìn chằm chằm, ngón tay siết chặt bình nước đến trắng bệch, lẩm bẩm khó chịu:
“Họ có quan hệ gì? Sao Hạ Tư đội vòng hoa anh ta bện mà cười vui thế?”
“Nếu tôi cũng bện một cái, liệu cô ấy có chịu đội không?”
Thế là anh ta thật sự cúi xuống, loay hoay học bện cỏ.
Nhưng tất nhiên thất bại.
Bùi Thư Vận nhìn dáng vẻ ủ rũ đó, chỉ vào bà nội đang ngồi cắn hạt dưa cười tủm tỉm, hiến kế:
“Anh muốn biết họ quan hệ gì thì cứ hỏi bà nội.
Em đã học chút tiếng Kazakh, không nói được nhưng dịch cho anh được.”
Thế là Cố Thiêm Trình chỉ vào tôi với Nuerjiang, tay chân múa may, hỏi bà có phải tình nhân không.
Bà hiểu, trả lời:
“Họ là bạn. Nuerjiang coi Hạ Tư như em gái, rất thích nó.”
Bùi Thư Vận dịch lại:
“Đúng, Nuerjiang rất thích chị.”
Một người dám dịch, một người dám tin.
Cố Thiêm Trình chau mày, môi mím thành một đường thẳng, lại hỏi bà:
“Vậy họ bên nhau bao lâu rồi?”
Lần này bà không hiểu, tưởng hỏi tôi và Nuerjiang quen bao lâu, liền giơ bốn ngón tay.
Khoảnh khắc đó, tôi thấy trời của Cố Thiêm Trình như sập xuống.
Anh ngồi ngây ra giữa thảo nguyên, cừu còn gặm áo cũng chẳng hay.
Đêm đến, anh với Nuerjiang thay nhau gác, nhìn Nuerjiang mà mặt đầy hậm hực.
Nuerjiang khó hiểu, hỏi sao anh chàng thành phố kia cứ dòm chằm chằm, chẳng lẽ thích đàn ông thô kệch như anh ta?
Tôi nghe mà cười gập cả người, Cố Thiêm Trình ngoái lại, ánh mắt chẳng khác gì oán phụ, khiến Nuerjiang phải lặng lẽ dịch sang chỗ khác.
Đi chừng ba ngày, trước khi trời tối, cánh đồng cỏ xanh ngút tầm mắt đã hiện ra — chuyến chuyển đàn cuối cùng cũng kết thúc.
Tôi dựng lại lều, Nuerjiang và Cố Thiêm Trình cùng giúp, chuyển đồ từ lưng lạc đà vào.
Nuerjiang đã nhịn cả quãng đường, đến lúc này thì không kìm được, dùng tiếng phổ thông lơ lớ hỏi thẳng Cố Thiêm Trình:
“Sao cậu cứ nhìn tôi mãi thế? Chẳng lẽ cậu thích tôi?”
Cố Thiêm Trình không ngờ anh ta thẳng thắn vậy, ngẩn ra rồi lúng túng đáp:
“Không, tôi chỉ thấy Hạ Tư vui vẻ khi ở cùng anh.”
“Thế thì cậu cũng tham gia với bọn tôi đi.”
Cố Thiêm Trình đỏ mặt:
“Cái này… không ổn. Chuyện kiểu này hai người là đủ, ba người không hợp.”
Nuerjiang thì nhiệt tình:
“Sao lại không? Tôi thích đông người, càng đông càng vui.”
Cố Thiêm Trình sững sờ, một chữ cũng không thốt nên lời.
Một lúc sau mới lắp bắp, kiên quyết lắc đầu:
“Không, thật sự không ổn.”
“Có gì mà không ổn, chúng ta đều là bạn.” Nuerjiang vỗ vai anh:
“Hạ Tư là bạn, cậu cũng thế.”
“Bạn… nhưng chẳng phải hai người là tình nhân sao?”
Nuerjiang sợ hãi xua tay liên tục:
“Đừng nói bậy, tôi với Hạ Tư trong sáng, chỉ là bạn thôi.”
Lúc đó trời đã tối, xa xa có khói bếp bốc lên — mẹ Nuerjiang đang nấu cơm.
Nói xong, anh ta cưỡi ngựa về nhà.
Không hiểu Cố Thiêm Trình bị gì, bỗng hớn hở chạy loạn khắp đồng cỏ.
Chạy một hồi thì ngã lăn, lại bật dậy chạy tiếp, vừa chạy vừa nhảy, khiến cừu sợ hãi chạy tán loạn.
Rồi anh ta lại hì hục dồn đàn về. Dù sao cũng khỏe, hai chân mà kéo được nửa sườn núi cừu về đàn.
Hoàng hôn phủ vàng cả thảo nguyên, gió mang theo âm vang mục ca, đường chân trời lấp lánh như tàn than.
Đếm xong số cừu, anh ta chạy về phía tôi.
“Hạ Tư, tôi có chuyện muốn nói với chị.”
Tôi khẽ gật cằm, ra hiệu anh nói.
Anh ta cân nhắc mãi, tôi tưởng chuyện lớn gì.
Ai ngờ cúi đầu nhìn tôi, nghiêm túc hỏi:
“Hạ Tư, tôi có thể theo đuổi chị không?”
8
Tôi nằm trên thảo nguyên, ngậm cọng cỏ trong miệng.
“Cố Thiêm Trình, đừng nhầm lẫn giữa hảo cảm và thích, nhất là trong hoàn cảnh xa lạ này.”
Anh ngơ ngác nhìn tôi, tôi vỗ chỗ trống bên cạnh, ra hiệu cùng nằm xuống.
“Anh là người thành phố, tò mò với tất cả ở đây, kể cả tôi. Anh không phải thích tôi, chỉ là ở chốn xa lạ này, tôi khiến anh thấy an tâm, lại vừa đúng lúc xuất
hiện khi anh gặp nguy hiểm.”
“Có thể anh nghĩ tôi cái gì cũng làm được, nhưng bản lĩnh của tôi chỉ hữu dụng ở đây. Về thành phố, nơi anh quen thuộc, anh sẽ thấy tôi cũng vụng về thôi.”
Tôi nhìn mặt trời to lớn dần chìm xuống đường chân trời, thay cọng cỏ khác, tiếp tục nói:
“Anh chỉ đang say nắng thôi. Qua đi rồi, sẽ chẳng còn bận tâm đến tôi nữa.”
Thật ra, lòng tôi cũng mơ hồ.
Tôi không biết cuộc sống thành phố lớn thế nào, càng không biết cha mẹ ruột là người ra sao.
Khi mới sinh, y tá sơ ý tráo tôi và Bùi Thư Vận.
Cha mẹ cô ta không muốn con gái, đem bỏ tôi cạnh thùng rác.
May có cha mẹ nuôi thương tình nhận về, nhưng vì đi làm xa không nuôi được, Tết năm ấy đem gửi tôi cho bà nội.
Tôi lớn lên bên bà, nói trôi chảy tiếng Kazakh, biết nướng cừu, đua ngựa, bắn cung, nắm vững kỹ năng sống ở thảo nguyên.
Nhưng thành phố, với tôi vẫn vô cùng xa lạ.
Cố Thiêm Trình nghiêng đầu nhìn tôi:
“Nếu sau khi về, tôi vẫn thích chị thì sao?”
“Hôn ước này, có còn tính không?”
Tôi nhìn hoàng hôn, không đáp.
Anh ta lại lải nhải chẳng khác nào Nuerjiang:
“Hạ Tư, tôi rất rõ lòng mình, không phải nhất thời bốc đồng, tôi thật sự thích chị.
Tôi sẽ tiếp tục theo đuổi, miễn không làm chị khó xử, cho đến khi chị đồng ý.”
Kết thúc chuyển đàn, tôi lại nướng một con cừu, mọi người cùng nhau chia.
Ngày mai tôi rời thảo nguyên, về với cha mẹ ruột, cũng chính là thành phố nơi tôi học đại học.
Trong lòng tôi có chút không nỡ.
“Con gái à, sang đó nhớ học hành cho tốt, đừng lo lắng cho nhà. Nuerjiang với mọi người sẽ giúp bà.”
Bà nội xoa đầu tôi.
Bùi Thư Vận khoác tay tôi:
“Chị, nhà đã chuẩn bị xong hết, chỉ chờ chị về. Ba mẹ đều rất tốt, chị đừng sợ.”
Nhưng tôi không chắc, liệu họ có chê tôi quê mùa, có thiên vị Bùi Thư Vận mà ghét bỏ tôi không.
Tôi nhìn sang đống lửa, bắt gặp ánh mắt Cố Thiêm Trình, anh ra hiệu cho tôi yên tâm.
Ngày hôm sau, chúng tôi rong ruổi cả ngày, đến nửa đêm mới dừng trước cửa nhà họ Bùi.
Và tôi sững người.