Chương 1
1.
Cha mẹ tôi dung mạo đoan chính, vậy mà sinh ra một đứa con quái thai.
Chuyện như vậy ở Thanh Than Phố không hiếm, mỗi năm đều có vài trường hợp.
Cách xử lý cũng rất tàn bạo.
“Đứa sống không thể nuôi, đứa chết không thể chôn, phải chặt vụn rồi vứt bỏ.”
Chặt ra từng mảnh nhỏ, ném vào nơi hoang dã.
Không chỉ có thể dứt tuyệt luân hồi của quái thai, mà còn khiến đồng loại của nó khiếp sợ, không dám đầu thai nữa.
Như vậy, lần sau sinh ra mới là đứa trẻ khỏe mạnh.
Cha tôi vì muốn có một đứa con lành lặn, không hề do dự, đập nát đầu tôi, chém tôi thành ba khúc, ném vào ngôi miếu đổ nát.
Chuyện này nhanh chóng lan truyền khắp Thanh Than Phố, rất nhiều người kéo đến xem thi thể vụn của tôi, ai cũng tò mò muốn biết quái thai lần này trông ra sao.
Có lẽ tôi quá xấu, nhiều người chỉ nhìn một cái liền nôn mửa, không dám nhìn lần thứ hai.
Cũng có người nguyền rủa, nhưng chẳng rõ chửi ai.
Chỉ có một người, nửa đêm lén quay lại, dùng áo đơn trên người gói các mảnh xác của tôi lại, chôn dưới gốc cây du già trước miếu.
Có lẽ là do cảm ứng trong cõi u minh.
Sau khi tôi được chôn, cha mẹ tôi đồng thời mơ thấy tôi, toàn thân máu thịt lẫn lộn, bò lên giường của họ, cắn vào bụng mẹ tôi.
Mẹ tôi tỉnh dậy sợ chết khiếp, bật đèn lên xem đi xem lại, thấy bụng không có dấu răng mới yên tâm.
Bà không nên yên tâm sớm như thế.
Bà đã quên rằng, khi chết tôi vẫn chỉ là một đứa trẻ sơ sinh, chưa mọc răng.
Không bao lâu sau, mẹ tôi bắt đầu nôn ọe liên tục, lại mang thai lần nữa.
Ba tháng sau, bụng bà nhô lên, xuất hiện những phản ứng kỳ lạ sau khi mang thai.
Cách vài ngày, trên người bà lại xuất hiện vài chỗ lõm nhỏ, rất ngứa.
Đi khám lang y, lang y cũng không rõ nguyên nhân, thuốc kê uống vào, những vết lõm lại càng sâu.
Sau đó, những vết lõm biến thành từng hàng, mẹ tôi hét lên thảm thiết.
Bà nhận ra, đó không phải vết lõm, mà là dấu răng.
Tôi chết vừa tròn nửa năm.
Nếu còn sống, chính là lúc mọc răng sữa.
2.
Vì căn bệnh kỳ quái của mẹ, cha tôi đi tìm người am hiểu xem giúp.
Sau nhiều vòng hỏi han, mới biết là do tôi được người tốt chôn cất, phá vỡ quy tắc “trẻ chết yểu không thể chôn”.
Người tốt bụng ấy không ai khác, chính là hàng xóm Lý Thiện.
Lý Thiện số khổ, học nhiều năm mới thi đỗ đại học, kết quả bị người khác lấy mất thành tích, không chịu nổi đả kích nên phát điên, người nhà cũng đều mất, chẳng cưới được vợ, sống một mình.
“Đồ khốn Lý Thiện, đời mày khổ thì thôi, còn tới hại nhà tao!”
Cha tôi tức giận, trực tiếp sang nhà đánh gãy chân Lý Thiện, rồi chạy đến gốc cây du già đào xác tôi lên.
Tôi đã thối rữa, chỉ còn vài mẩu xương vụn.
Cha tôi cảm kích vị cao nhân kia, nghe theo chỉ dẫn, đem xương vụn của tôi niêm phong trong một cái chum, dán bùa vàng trấn áp.
Tôi còn quá nhỏ, chưa đầy một chum.
3.
Thế nhưng bệnh của mẹ tôi không hề thuyên giảm như lời cao nhân nói, mà ngày càng trầm trọng.
Những hàng dấu răng nhỏ trên bụng ngày càng sâu, vết thương dần dần mưng mủ, như thể có thứ gì đó sắp cắn thủng bụng bà.
Cao nhân dùng đủ mọi cách với tro cốt của tôi: ngâm nước, đốt lửa, lập trận pháp, hết thảy đều vô ích.
Để cẩn thận hơn, ông ta lại mời một lang y khác đến, người được gọi là “Hoa Đà tái thế”.
Hai người hợp sức, đạo pháp lẫn y thuật đều tinh thông, lẽ ra có thể chữa khỏi ngay.
Nhưng sau khi bắt mạch, lang y ấy sắc mặt xanh tái, không có vẻ tự tin, cầm bút hồi lâu vẫn không viết đơn thuốc, đến khi cha tôi thúc giục mới ấp úng nói rằng bệnh này nguy kịch, phải dùng thuốc mạnh.
Nhưng mẹ tôi đang mang thai, không dám dùng thuốc mạnh.
Lang y và cha tôi bàn bạc, để tránh một xác hai mạng, chi bằng nhân lúc thai còn nhỏ, phá thai trước để cứu mẹ.
Điều này khác hẳn với những gì nói ban đầu.
Cha tôi nghe xong, liền đấm thẳng một quyền vào mặt lang y, mắng rằng ông ta muốn hại con mình.
Cao nhân tới khuyên, cũng bị đánh hai quyền.
Hai cú đấm ấy khiến lang y gãy răng, cao nhân toác miệng.
Hai người miệng đầy máu rời khỏi nhà tôi, nếu chạy chậm có lẽ còn bị đá thêm vài cú.
Thanh Than Phố chỉ là một thị trấn nhỏ, thầy thuốc chẳng có mấy ai, mà người bị đánh lại là người có danh tiếng nhất.
Những cú đấm đó của cha tôi gần như đã cắt đứt đường sống của mẹ tôi.
Mẹ tôi biết chuyện, khóc lóc thảm thiết, nhưng khóc không phải vì giận, mà vì sợ, chỉ cố tỏ ra cứng miệng:
“Cho dù có chết, tôi cũng phải sinh con mình ra, tuyệt đối không để tà ma đắc ý. Có giỏi thì khiến tôi chết ngay đi.”
“Tà ma” mà bà nói, chính là tôi.
Cha tôi đá đổ cái chum chứa xương của tôi: “Lão tử đã giết mày một lần, thì có thể giết mày lần thứ hai!”
Mẹ tôi ngừng khóc, ôm bụng, ngẩng đầu nhìn chum xương của tôi.
Chum nghiêng đổ, lăn lông lốc về phía bà, bà lại rơi nước mắt:
“Xem ra đứa con quỷ này nhất định muốn kéo tôi chết theo.”
Cha tôi cầm búa sắt định đập nát cái chum ấy.
Giống hệt như ngày tôi ra đời, ông ta đập nát đầu tôi vậy.
Nhưng lần này, mẹ tôi ngăn lại, búa lệch đi, đập xuống đất, lõm thành một hố sâu.
“Vất vả lắm mới phong ấn được oan hồn, ông muốn thả nó ra sao?” Mẹ tôi lại bật khóc.
Có lẽ ông trời thật sự đứng về phía họ.
Ngày hôm sau, trong thị trấn xuất hiện một vị lang y lắc chuông có bản lĩnh.
Ở nông thôn miền Bắc thường thấy loại lang y giang hồ này, dắt theo một con lạc đà, tay rung chuông, giọng nói phương Nam, từ xa xôi phía Nam đến, dù là bệnh nan y gì cũng có thể chữa khỏi.
Vì thế, nơi nào lang y lắc chuông đến, đều được người dân đón chào.
Cũng đúng với câu: “Hòa thượng từ xa đến, tụng kinh hay hơn.”
Đối với cha mẹ tôi, vị lang y ấy là một cọng rơm cứu mạng biết đi.
Cách chữa của ông ta rất kỳ lạ, không cần gặp bệnh nhân, cũng không bắt mạch, thậm chí chẳng bước qua cửa.
Ông chỉ bảo người nhà mang ra một món đồ của mẹ tôi.
Cha tôi đưa cho ông ta đôi hoa tai của bà, ông ta dùng một giọng phương Nam khó nghe, nửa hát nửa niệm, tìm nguồn gốc và nhân quả của căn bệnh.
Một lát sau, đôi hoa tai ấy bỗng vỡ làm đôi.
Lang y không nói gì, chỉ lắc đầu định rời đi.
Cha tôi ngăn lại, quỳ sụp xuống ôm lấy chân ông ta.
Lang y dừng bước, vẫn lắc đầu: “Trẻ chết yểu là oan hồn đòi nợ, không thể trừ, cũng không nên trừ.”
Không biết cha tôi đã nói gì, ông ta bỗng đổi ý, đưa ra cách khác.
“Cũng có một cách có thể thử, đó là tìm một người thế mạng.”
Giọng phương Nam nặng nề, ông nói chậm rãi, hơi lộn xộn, phải lắng nghe kỹ mới hiểu được: “Đứa bé oan hồn đó đến giờ vẫn chưa giết ai, chỉ để lại dấu răng, chứng tỏ nó không muốn hại người, mà chỉ muốn chiếm lấy thai nhi trong bụng vợ anh để đầu thai. Chỉ cần tìm một người chết thay là có thể hóa giải. Dùng súc vật không bằng dùng người, phải là người sống.”
“Là phải… giết người sao?” Cha tôi hơi do dự.
Lang y lắc đầu: “Không phải giết thật, chỉ cần lấy một sợi tóc, một mảnh móng tay, hoặc mảnh vải, một chiếc giày từng mang của người đó, nhỏ lên đó một giọt máu đầu ngón tay vợ anh, rồi chôn cùng với xương oan hồn, thì người ấy sẽ bị hiến cho oan quỷ.”
“Người được hiến đó sẽ nhanh chóng chết đi.”
Lang y lấy trong túi ra một gói thuốc, đổi lấy một xấp tiền: “Làm xong tất cả, để vợ anh uống gói thuốc này, oan hồn sẽ không thể lại gần nữa.”
Ông ta dắt lạc đà rời đi, nhưng đi được một quãng lại quay lại:
“Nhớ kỹ, người làm thế mạng nhất định phải được tặng chút gì đó — bất kỳ thứ gì cũng được, tuyệt đối không thể tay không. Gọi là ‘đổi mạng’, nếu không thì lại mắc thêm một món nợ oan hồn khác.”
4.
Cha tôi giấu gói thuốc vào tủ.
Mẹ tôi dùng kim nung đỏ chọc vào những vết mưng mủ trên người.
Vẫn là ban ngày, nhưng bà không chịu mở rèm, trong phòng tối om.
Cha tôi vặn sáng bóng đèn vàng yếu, ánh sáng khiến mặt hai người vàng như đất.
Cha tôi giữ lấy tay bà: “Nguyệt Nga, cố chịu thêm một chút, tôi đã tìm được người thế mạng rồi, em và con đều được cứu.”
Nói xong, ông ra ngoài, đi thẳng đến phố Tây mua một đôi giày mới, rồi mua thêm một con gà trống.
Lúc chọn gà, người bán ở chợ tặng ông một bó hành non, hỏi: “Anh Sinh, mua con gà béo thế này, là chị dâu khỏe lại rồi à?”
Cha tôi tên thật là Lý Xuân Sinh, vốn trước kia cũng bán tạp hóa ở khu chợ này. Sau làm ăn khá lên, có cửa hàng riêng. Sau đó vợ mang thai, đúng là song hỷ lâm môn.
Tiếc rằng sinh ra tôi lại là quái thai.
Cha tôi không nhận bó hành, chỉ cười gượng: “Ừ, đỡ rồi, đi lại được rồi.”
Ông không nói thêm gì, quay về nhà.
Đến cửa, ông không vào mà vòng qua nhà bên cạnh – nhà Lý Thiện – rồi gõ cửa.
Nhà Lý Thiện nghèo, không có tường rào, chỉ dựng hàng rào tre, gian nhà đất nện, mỗi lần gõ cửa là đất rơi lả tả.
Lâu lắm, Lý Thiện mới ra mở.
Giữa ban ngày, hắn lại đang ngủ. Nhìn thấy cha tôi, hắn run rẩy định đóng cửa lại.
Cánh cửa gỗ cũ không khép kín, cha tôi đẩy nhẹ, hắn cùng cửa ngã nhào. Chân gãy mấy hôm trước chưa chữa, sưng tím, lấp lánh, cong queo chống đất.
Hắn lấy tay che mặt, giọng run run: “Không dám nữa… không dám nữa…”
Cha tôi đỡ hắn dậy, dúi con gà vào tay hắn: “Tôi nghĩ lại rồi, mấy hôm trước tôi sai, đây là quà tạ lỗi.”
Còn có cả một đôi giày mới.
Chân Lý Thiện mang đôi giày cũ rách tươm, trước sau lủng lỗ, chẳng còn ra hình dạng.
Hắn không dám nhận, ôm chân gãy, lắc đầu.
Cha tôi ngồi xuống, tự tay thay giày mới cho hắn.
Lý Thiện im lặng, không dám hé răng.
Cha tôi nhặt đôi giày cũ, quay người bỏ đi.
Đi được mấy bước, sau lưng Lý Thiện khập khiễng đuổi theo, mấp máy môi nói “Cảm ơn”.
Hắn không nhìn thấy nụ cười của cha tôi khi cầm đôi giày cũ ấy.
Chỉ cần một đôi giày cũ, là có thể hiến Lý Thiện làm người thế mạng cho tôi.
“Xuân Sinh, Xuân Sinh!” Lý Thiện đột nhiên gọi theo.
Cha tôi theo phản xạ giấu đôi giày vào ngực: “À… đôi giày này tôi giúp cậu vứt, rách nát thế rồi, mang cũng chẳng được nữa…”