Dã Hữu Trưởng Phong

Chương 10

30

Vào nửa đêm bốn ngày sau, một tiếng kèn sắc bén kinh động màn đêm.

Địch tập!

Ta và Diệp thúc chạy đến đại doanh, bắt đầu phòng thủ theo đúng như những gì chúng ta đã diễn tập hết lần này đến lần khác, đồng thời sắp xếp nhân mã che chắn cho trinh sát khởi hành.

Từ khi Vệ Lam đi, Lý Minh trầm mặc hơn rất nhiều.

Trước khi đi hắn đưa cho ta một phong thư: “Vệ Trường Phong, nếu ta chết trận, hãy đưa cái này cho Vệ Lam.”

Nói rồi hắn nhảy lên ngựa, cùng đồng đội mang theo sứ mệnh lao vào màn đêm. Trận chiến này khó khăn hơn chúng ta tưởng tượng.

Xuân hạ cỏ nước tươi tốt, là lúc Bắc Địch – một dân tộc du mục – có lương thảo dồi dào, quốc lực hưng thịnh nhất.

Điều này cũng có nghĩa là, trận chiến này họ nhất định phải thắng, cướp đoạt đủ của cải và lương thực, nếu không họ sẽ khó lòng vượt qua mùa thu đông này.

Hai bên đều không còn đường lui, chỉ còn cách tử chiến!

Đây là lần thành này đối mặt với quân địch đông nhất, ta đứng trên tường thành nhìn ra xa, giáp đen nối liền trời đất, không thấy điểm cuối.

Không thể sợ hãi, không thể do dự.

Là tướng lĩnh, là linh hồn của quân đội.

Để Diệp thúc ở lại chỉ huy trong thành, ta đeo tướng ấn bên hông, dẫn binh sĩ xông pha nơi tiền tuyến ác liệt nhất.

Trường đao trong tay chém giết đến mức cùn lưỡi, tiện tay cướp lấy một thanh không biết là của đồng đội đã tử trận hay kẻ địch.

Lại chiến, lại đoạt, cứ thế lặp đi lặp lại.

Ngày thứ nhất, sĩ khí quân ta dâng cao, đẩy lùi địch ba dặm.

Ngày thứ hai, viện binh địch không ngừng, quân ta miễn cưỡng giữ được thành trì.

Ngày thứ ba, dầu lửa và đá lớn đã cạn, quân ta chỉ có thể dùng mạng người để chống đỡ thang mây của địch.

Bắt đầu có người hỏi, hỏi Diệp thúc, hỏi ta, vì sao Bắc Địch vốn lấy tập kích làm chính, cướp bóc không thành thì rút lui, lại không rút lui, hỏi chúng ta có đi cầu viện chưa, hỏi chúng ta có giữ được không.

Câu trả lời của chúng ta là đao thương trong tay.

Chỉ có chiến, mới có thể sống.

Ngày thứ tư, cung tên cạn, quân khí cạn. Binh sĩ mới bổ sung đã không còn nhận được vũ khí bằng sắt.

Thế là tất cả mọi người đều biết, trận chiến này không giống những cuộc giao tranh nhỏ trước kia.

Dân chúng biên địa, trong huyết quản đều chảy dòng máu anh hùng.

Nữ tử tự động mang nồi niêu xoong chảo nông cụ trong nhà đến chỗ thợ rèn, để những món đồ sắt đó hóa thành đao kiếm và mũi tên, bảo vệ con trai họ.

Trẻ con trèo lên đầu tường thành, dựa vào thân hình lanh lẹ, rút vũ khí cắm trên người địch và bạn đã ngã xuống.

Những nữ nhân trong trướng của Trưởng Công chúa ngày xưa cũng bước ra khỏi doanh trướng, trở lại dưới ánh mắt của mọi người, với thân phận của một con người, thân phận của một chiến sĩ.

Người khỏe mạnh lên chiến trường, người yếu ớt cầm lấy thuốc men, như khi còn trong quân đội.

Ngày thứ năm, tiền quân tử trận hết, trung quân thương vong nặng nề, hậu quân phụ trách hậu cần và quân nhu phải lên thay.

Ở biên địa, đây là một đội quân đặc biệt nhất. Nó có cả quân nhân lẫn dân thường, có cả nam nhân lẫn nữ tử.

Chồng và con trai ở phía trước làm lực lượng tác chiến chính, vợ và mẹ ở phía sau phụ trách mang thương binh về và hỗ trợ chiến trường.

Đến lượt họ ra trận, đã không còn vũ khí ra hồn nữa. Trong tay các cụ bà thậm chí còn cầm thanh củi đốt bếp và cây cán bột.

Đây là một đội quân dù thế nào cũng không thể lùi bước. Người phía trước ngã xuống, vó sắt của kẻ thù sẽ giẫm lên thân nhân phía sau.

Người phía sau rút lui, con trai phía trước sẽ không bao giờ có thể về nhà nữa.

Chiến!

Chỉ có chiến.

Ngày thứ sáu, người chết và người bị thương nhiều đến mức y giả làm việc liên tục cũng không kịp cứu chữa.

Trong thành bắt đầu dấy lên tiếng ai oán, rồi lại dần yếu đi. Nữ tử lau khô nước mắt, xoa đầu con cái, xắn tay áo, cũng bước lên tường thành.

Thế là, trẻ con cũng lớn nhanh như thổi.

Khi ta xuống chữa trị vết thương, người băng bó cho ta là một cô bé năm, sáu tuổi. Mắt em đỏ hoe, đổ số thuốc bột còn lại không nhiều lên vết thương của ta.

Nhìn ta, em gắng gượng nở nụ cười còn vương nước mắt: “Không đau đâu, tỷ tỷ không đau đâu.”

Bàn tay nhỏ thò vào cái túi nhỏ đeo ở eo, móc ra một miếng kẹo gạo nhỏ, cẩn thận bẻ một chút: “Xem này, làm bệnh nhân của muội có kẹo ăn đó.”

Cô bé xoa đầu ta, giống như mẹ em xoa đầu em vậy.

Diệp thúc cuối cùng cũng không ngồi yên được nữa, mấy ngày này người đã phải đè nén quá nhiều tiếng hoảng sợ và chất vấn, gần như không chợp mắt.

Người khẽ hỏi ta: “Trường Phong, thật sự có viện binh không? Chúng ta thật sự có thể đợi được viện binh không?”

“Nếu không đến nữa, vật tư và lòng người ở đây, đều không thể chống đỡ được nữa.”

Ta không biết.

Nhưng ta khẳng định: “Sẽ đến, chúng ta sẽ đợi được.”

Miếng kẹo gạo trong miệng còn chưa tan, ta chống đao trở lại chiến trường.

Ta đã không thể tùy tiện rời đi hay xuống trướng, vì ta nhìn quanh, ánh mắt của các chiến sĩ đã trở nên tuyệt vọng và tê dại.

Chỉ có chủ tướng còn ở đây, mới có thể cho họ chút dũng khí.

Ngày thứ bảy, Tạ Thính Vũ, người cũng đầy máu bẩn như ta, lui xuống bên cạnh ta, đứng ở chỗ trống đánh trống quân trên tường thành.

Quân tử Lục lễ: Lễ, Nhạc, Xạ, Ngự, Thư, Số. Món nào Tạ Thính Vũ cũng tu luyện rất giỏi.

Hắn cầm dùi trống, cất cao giọng ca.

“Bạch mã sức kim ky, liên phiên tây bắc trì.” (Ngựa trắng thắng vàng, liên tiếp phi về tây bắc.)

Chiến đấu liên tục không nghỉ ngơi, giọng Tạ Thính Vũ trầm khàn, như thanh quân đao bị cát vàng mài mòn. Thế nhưng tiếng trống quân lại cao vút và mạnh mẽ, gõ vào trái tim mỗi chiến sĩ.

“Giới vấn thùy gia tử, U Tịnh du hiệp nhi.” (Xin hỏi con nhà ai, là hiệp khách xứ U Tịnh.)

Ta giơ trường đao lên, dùng giọng khản đặc không kém hô lớn: “Chư tướng sĩ nghe lệnh!”

Không cần thêm lệnh nào nữa, chủ tướng trường đao chỉ về đâu, đó chính là phương hướng tiến lên.

“Khí thân phong nhận đoan, tính mệnh an khả hoài?” (Bỏ thân nơi mũi đao, tính mạng sao quý trọng?)

Binh sĩ bị thương quá nặng ôm chặt lấy kẻ thù, dùng thân thể, dùng răng, dùng sinh mạng, đổi lấy cơ hội cho đồng đội chém đầu kẻ thù.

“Danh biên tráng sĩ tịch, bất đắc trung cố tư.” (Ghi danh tráng sĩ tịch, không mảy may nghĩ riêng.)

Binh lính vây quanh ta ngày càng ít, ta chỉ có thể từ bỏ xông pha, vừa chiến vừa lui về phía cổng thành.

Chỉ đến đây thôi, không thể lùi nữa.

“Quyên khu phó quốc nạn, thị tử hốt như quy!” (Xả thân vì việc nước, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng!)

Khúc chiến ca của Tạ Thính Vũ vẫn vang vọng. Ban đầu chỉ có giọng một mình hắn, sau đó có thêm trẻ con, nữ tử, thương binh…

Vô số âm thanh từ trong thành vang vọng lên, vô số trái tim hòa làm một, vô số bàn tay cùng nhau nâng đỡ.

Thế là, trong khúc ca như vậy, ta, chúng ta luôn chắn ngay cổng thành, không lùi một bước.

Không thể nghĩ nhiều nữa, máu chảy qua mắt, không kịp nghĩ là máu của ai, càng không có thời gian lau chùi.

Chỉ muốn chống đỡ thêm một lát, thêm một lát nữa. Chiến kỵ của Bắc Địch bị chúng ta tiêu hao hết, thế công cuối cùng cũng chậm lại.

Nhưng chúng ta cũng đã là cung tên hết lực.

Thời gian và sinh mạng trên chiến trường đều chẳng qua là một hạt bụi bay, chúng ta chỉ có thể cầu nguyện.

Mặt trời, mặt trăng ơi, xin các người quay nhanh hơn, nhanh hơn nữa. Mang viện binh phương xa đến đây, xua đuổi lũ sói hoang nơi này đi.

Ta không biết ta đã đứng ở cổng thành bao lâu, cứ như đã trôi qua vạn năm dài đằng đẵng, mới chợt nghe thấy tiếng reo hò.

Ta nheo mắt nhìn về phía xa, vài cánh quân lớn đang tăng tốc lao về phía chúng ta.

Có người mặc váy đỏ, giương cao cờ xí, ào ào tiến đến. Phía sau nàng, là vầng dương vừa nhô lên nơi sa mạc.

“Viện binh đến rồi!” Lần đầu tiên ta nghe thấy giọng Tạ Thính Vũ run rẩy đến vậy, hắn nói: “Trường Phong, viện binh đến rồi! Chúng ta đã đợi được! Chúng ta đã làm được!”

Đây là ngày thứ mười giữ thành.

31

Trưởng Công chúa mang đến hai đợt nhân mã, một đợt là do nàng điều từ Lăng Thành Quan, đợt kia là do trinh sát của chúng ta mộ được từ các đồn trú. Trên đường gặp nhau, bèn thống nhất do Trưởng Công chúa dẫn đội.

Họ vừa đến, áp lực trong thành liền giảm nhẹ.

Binh mã lương thảo đều đã được tiếp tế, thương binh cuối cùng cũng có thể rút lui chuyên tâm dưỡng thương.

“Kể cả nàng.” Tạ Thính Vũ một tay nắm lấy vai ta, kéo ta xuống khỏi tường thành.

Ta cúi xuống nhìn vết thương ở bụng, đã không rỉ máu nữa rồi, hoàn toàn không ảnh hưởng đến hành động.

Vốn dĩ cũng chẳng phải vết thương chí mạng gì, khi hai bên hội quân với người của Trưởng Công chúa, ta hoa mắt ngã ngựa, mới phát hiện bụng bị rách một lỗ nhỏ, khâu lại rồi thì đã ổn.

Nghe ta lầm bầm, Tạ Thính Vũ vặn tai ta.

Ta: “Làm gì? Ra chiến trường bị thương không phải là chuyện bình thường sao?”

Tạ Thính Vũ: “Ta đếm tới ba.”

Hắn lạnh mặt.

Không hiểu vì sao, ta thấy hơi sợ, đành ngoan ngoãn theo sau hắn.

“Tạ Thính Vũ, lúc ta ngã xuống có phải ngươi đã khóc không?”

Ta nhớ ta ngã vào một vòng tay vững chãi, người đó liên tục gọi tên ta, nước mắt nóng hổi rơi trên mặt ta.

Nhưng khi ta tỉnh lại, Tạ Thính Vũ khăng khăng nói không phải hắn ôm ta, mà là Diệp thúc. Ta nói lần gần nhất Diệp thúc rơi lệ là lúc cha ta chết.

Tạ Thính Vũ: “Ừ thì, người tưởng nàng sắp chết rồi.”

Ta: “Ngươi còn cứng miệng nữa ư?”

Tạ Thính Vũ dùng chăn che mặt ta lại, mạnh mẽ phong ấn ta: “Bệnh nhân ngủ nhiều vào!” Rồi hắn bỏ chạy.

Ta không tin.

Ta cũng không biết mình nghĩ gì, chỉ là muốn trêu chọc hắn một chút, cạy miệng hắn ra.

Thế là ta thỉnh thoảng lại bất ngờ quấy rối hắn. Tạ Thính Vũ từ chỗ đỏ mặt cãi lại ta, giờ đã bình tĩnh phạm tiện.

Hắn nói: “Không ai khóc, nước tiểu ngựa dính vào mặt nàng đấy. Sợ nàng thấy mất mặt, không ai dám nói với nàng thôi.”

Ta: “…”

Ta nhảy dựng lên đấm hắn một cái.

Tạ Thính Vũ giận: “Giờ là lúc có thể nhảy và đấm quyền sao? Ngoan ngoãn đi theo ta!”

Ta không thèm nghe hắn.

Chương trước
Chương sau