Chương 3
Nếu bà Tống biết tôi giết chết chó của bà ta, không chỉ bị đuổi việc, mà còn có thể phải bồi thường một khoản lớn.
Vì vậy…
Ngay khoảnh khắc tôi định đạp ga lao đi.
Một tia sáng vụt qua đầu tôi.
Tôi nhớ ra – bà Tống là người tin Phật, giảng về lòng từ bi, coi trọng chữ hiếu.
Tôi buột miệng:
“Ba tôi đang bệnh nặng.”
“Tôi muốn xin phép đi bệnh viện thăm ông ấy.”
Tất nhiên, đây là lời nói dối.
Nhưng bà ta đâu biết.
Chỉ cần bà gật đầu, tôi có thể xử lý được xác chó.
Ai ngờ, chuyện tưởng như chắc chắn lại xảy ra trục trặc.
Bà Tống – người suốt ngày rao giảng nhân nghĩa đạo đức – lúc này lại nhíu mày:
“Nếu muốn xin nghỉ, cô phải báo trước ít nhất một ngày.”
“Cô nói đi là đi như vậy, sẽ ảnh hưởng đến công việc.”
“Tôi thấy làm vậy rất vô trách nhiệm.”
Tôi chết lặng: lòng từ bi đâu rồi?
Nhưng cũng may, nhờ màn gián đoạn này mà bà Tống tạm thời rời mắt khỏi cốp xe.
Thấy tôi không nói gì.
Bà Tống lại dịu giọng:
“Tất nhiên, tôi không phải không cho cô báo hiếu.”
“Vậy thế này đi, mai tôi cho cô nghỉ một ngày, được chứ?”
Dù là câu hỏi, nhưng giọng điệu không cho phép từ chối.
Tôi chỉ đành thở dài trong lòng, ngoan ngoãn lái xe quay lại gara.
Ái Thụy Khắc và cái nắp sọ của nó vẫn còn trong cốp xe, tôi phải cực kỳ cẩn thận.
Tôi tìm một góc khuất nhất để đỗ xe.
Sau đó chạy hết tốc lực quay lại biệt thự – tôi sợ họ phát hiện ra bí mật trong bếp.
Vừa vào cửa, tôi đã nghe bà Tống gọi liên tục:
“Ái Thụy Khắc? Ái Thụy Khắc? Cục cưng của mẹ, con đâu rồi?”
Tim tôi đập thình thịch như muốn nhảy khỏi lồng ngực.
Thấy tôi về, bà Tống hỏi:
“Ái Thụy Khắc đâu rồi? Dắt nó ra chào khách đi.”
Giữa cơn hoảng loạn, tôi cũng thấy hơi bất lực.
Chó cũng phải giao tiếp xã hội nữa à?
Nhưng tôi không để lộ cảm xúc, chỉ lễ phép gật đầu đồng ý.
Sau đó vờ vĩnh đi khắp nhà tìm một vòng.
Thực ra, tôi chỉ đi lang thang trong khi suy nghĩ.
Nếu bây giờ tôi nói con chó ham chơi, chạy mất rồi.
Bà Tống vẫn sẽ đổ lỗi cho tôi.
Nghe nói con chó này trị giá hơn cả trăm nghìn tệ, tôi không muốn đền tí nào.
Nhưng trời giúp tôi rồi – tụi người này đang tụ tập, đi tới đi lui, chỉ cần có người quên đóng cửa, tôi có thể mượn cơ đó để nói con chó chạy mất.
Lúc đó, bà Tống chắc chắn không tiện trách móc bạn mình.
Nghĩ tới đây, tôi vui như mở cờ trong bụng.
Tôi bình tĩnh quay lại nói với bà Tống:
“Ái Thụy Khắc đang chạy nhảy ở sân sau, không chịu vào.”
May mà ngôi biệt thự này là nhà biệt lập.
Sân vườn rất rộng, bà Tống không thể nào đi khắp sân tìm chó.
Không phù hợp với thân phận bà ta.
Bà ấy chỉ gật đầu:
“Vậy chờ đến khi ăn cơm thì gọi nó vào.”
Tôi vừa ngoan ngoãn nghe bà ta nói chuyện với khách, vừa rót nước cho mọi người.
Khi tôi đi ngang qua vị khách nam duy nhất, dưới chân bỗng vang lên tiếng rên khe khẽ:
“Gâu…”
Tôi giật mình.
Cúi xuống mới thấy – dưới chân gã có một con chó.
Là một con chó cỏ Trung Quốc.
Người đàn ông đó tên là Tưởng Húc.
Theo quan sát của tôi lúc nãy, anh ta và bà Tống có quan hệ rất thân thiết.
Nhưng sao lại nuôi một con chó tầm thường thế này?
Điều chết người nhất là – con chó đó lại tỏ ra vô cùng sợ tôi.
Nó nằm rạp xuống đất, rên rỉ lùi dần về sau.
Hai mắt nhìn tôi đầy cảnh giác và sợ hãi.
Tưởng Húc cúi đầu nhìn, khẽ bật cười:
“Sunny, sao lại sợ dữ vậy?”
“Cái đuôi còn cụp xuống rồi kìa.”
—
7
Ngay lập tức, mọi người đều nhìn về phía tôi.
Tôi biết rõ:
Chắc là lúc tắm qua loa, trên người tôi vẫn còn mùi máu của Ái Thụy Khắc.
Nhưng tôi không hoảng.
Chuyện nói dối, càng làm càng quen tay.
Tôi chỉ cười giải thích:
“Có mấy con chó nhát lắm, sợ người lạ thôi.”
“Lúc đầu Ái Thụy Khắc cũng sợ tôi.”
“Nhưng sau một thời gian quen sẽ ổn.”
“Hay là thế này, tôi dẫn nó ra sân sau, chơi với Ái Thụy Khắc nhé?”
Tưởng Húc nhìn tôi, hồi lâu rồi cười:
“Cũng được.”
Tôi dẫn con chó cỏ ra ngoài phòng.
Vừa khuất tầm mắt mọi người, tôi lập tức lạnh mặt, đá một phát, tống cổ nó ra sân sau.
“Cút.”
Vừa đuổi xong con chó chết tiệt suýt khiến tôi bại lộ ra sân sau, bà Tống lại sai tôi đi rửa hoa quả.
Tôi cố gắng kiềm chế cơn bực bội.
Trái cây ở trong tủ lạnh, mà tủ lạnh thì trong bếp.
Tôi liếc nhanh quanh phòng, chắc chắn mọi người đều đang ở phòng khách, rồi mới mở miệng:
“Vâng ạ, tôi đi lấy ngay.”
Tôi định chạy nhanh vào lấy trái cây ra, kẻo có người theo vào bếp.
Không ngờ, Tưởng Húc cũng đứng dậy:
“Tôi cũng đi nhé.”
“Hôm nay nói là mượn bếp nhà cô, để làm con cá ngừ vây vàng mà.”
Tôi tim thắt lại, vội vàng sửa lời:
“Xin lỗi, bà Tống, tôi nhớ nhầm.”
“Hôm nay cửa bếp hỏng rồi, tôi chưa gọi người đến sửa.”
“Bây giờ mở không được ạ.”
Bà Tống nhíu mày khó chịu:
“Cửa hỏng sao không mau gọi người sửa?”
“Xấu hổ quá.”
“Cô gọi ngay cho Tiểu Ngô đi, cậu ta biết sửa mấy thứ này.”
Tiểu Ngô chính là người giao thịt lúc sáng.
Tôi đang định kiếm cớ đùn đẩy.
Thì nghe Tưởng Húc lên tiếng giúp tôi:
“Thôi bỏ đi, không vội đâu.”
“Trong xe tôi có vỉ nướng, ra sân vườn nướng ăn cũng được.”
Sắc mặt bà Tống dịu lại.
Bà ấy hôn Tưởng Húc như ban thưởng:
“Chỉ có anh là biết chiều tôi.”
Tưởng Húc ôm eo bà Tống, thì thầm:
“Vậy tối nay tôi được ngủ lại chứ?”
Bà Tống có vẻ động lòng, nhưng vẫn lắc đầu:
“Anh về đi thì hơn.”
Tưởng Húc hơi thất vọng, nhưng không ép.
Hai người dính lấy nhau một lúc rồi cùng nhau lên tầng hai.
Tôi nhân lúc đó quay lại bếp tìm con mắt bị mất của Ái Thụy Khắc.
Nhưng tìm mãi vẫn không thấy.
Khi tôi quay về đến cửa phòng khách, liền nghe thấy giọng nói đầy khinh bỉ vọng ra:
“Chồng bà Tống chết chưa được bao lâu, đã vội bám lấy một thằng trai trẻ…”
Từ cuộc trò chuyện của họ, tôi xâu chuỗi lại được mối quan hệ giữa hai người.
Thì ra, Tưởng Húc từng là một giám đốc cấp cao trong công ty của ông Tống.
Sau khi ông Tống chết, Tưởng Húc đã giúp bà Tống giữ lại công ty, rồi tự nguyện rút lui làm tình nhân.
Mọi người đều nói Tưởng Húc bị sắc đẹp làm mờ mắt, đến tiền đồ cũng không cần nữa.
Tôi nghe mà thấy thú vị vô cùng.
Không ngờ, sau lưng đột nhiên vang lên một giọng nói:
“Cô đang nghe gì vậy?”
—
8
Là bà Tống và Tưởng Húc.
Cả hai quay lại với quần áo xộc xệch.
Trên cổ bà Tống còn lấm tấm vết đỏ mờ ám.
Tôi lắp bắp:
“Không… không có gì đâu ạ.”
Ngay lúc đó, con chó cỏ kia chẳng biết từ đâu chui ra.
Hai chân trước của nó đặt lên bàn trà, miệng rên “gâu gâu” khe khẽ.
Một người phụ nữ tiện tay nhặt miếng khô bò trên bàn, trêu chọc nó:
“Muốn ăn không?”
“…Ơ? Cái gì đây?”
Ngay khoảnh khắc tiếp theo, con chó vì muốn ăn, buông miệng.
Một vật gì đó rơi “bộp” xuống bàn trà.
Lúc này, bà Tống đã đi đến bàn, cau mày đưa tay nhặt lên:
“Cái này là gì vậy?”
Đồng tử tôi co rút!
Là con mắt thất lạc của Ái Thụy Khắc!
Gần như cùng lúc, bà Tống đã cầm nó lên.
Lúc đầu, bà còn chưa nhận ra.
Cho đến khi bà ta xoay con mắt lại, con ngươi đen ngòm nhìn chằm chằm vào mắt bà.
Bà Tống chết lặng ba giây, sau đó hét toáng lên:
“Á á á á á á!”
Bà ta hoảng hốt vung tay, ném con mắt lại lên bàn trà.
Những người còn lại cũng nhận ra đó là cái gì.
Chỉ trong chốc lát, tiếng hét, tiếng hoảng loạn, tiếng bàn ghế lật đổ vang khắp phòng.
Trong đầu tôi chỉ còn một ý nghĩ:
Việc làm này coi như mất rồi.