CHƯƠNG 2
Chương 2:
Có lẽ do nghe quá nhiều, trong đầu tôi toàn vang vọng tiếng rít ấy, khiến khả năng phán đoán cũng bị ảnh hưởng.
Tôi gọi Ngu Mặc tới nghe thử.
Nghe xong, sắc mặt anh ta lập tức thay đổi:
“Có… tiếng vọng.”
“Tức là cậu cũng nghe thấy?” – tim tôi giật thót, vội mở lại lần hai.
Đến lần nghe lại, Ngu Mặc tắt luôn đoạn ghi âm, ra hiệu im lặng.
Tôi nín thở, lắng nghe kỹ.
Ngay lập tức, da đầu tê dại!
“Xào… xạc… xào… xạc…”
Giọng tôi đã ngừng, điện thoại cũng tắt, nhưng tiếng vọng kia vẫn còn!
Đó tuyệt đối không phải âm thanh của tôi, cũng không phát ra từ điện thoại.
Âm thanh ấy… đến từ phía trên đầu chúng tôi!
Nói chính xác, âm thanh vọng xuống từ… trên xà nhà.
Tôi chậm rãi ngẩng đầu.
Ánh sáng trên cao mờ mịt, một bóng đen cuộn chặt trên thanh xà, lộ ra đôi mắt xanh lục âm u.
“Bùm—!”
Một tia sáng trắng lóe lên, lao vút ra!
Ngu Mặc đã ra tay.
Anh ta nhanh như cắt, nhảy lên bám vào xà nhà.
Bụi mù tung tóe, một thứ đen sì, thon dài, lao vọt ra ngoài với tốc độ cực nhanh, biến mất trong rừng.
“Thấy rõ được hình dạng chưa?” – tôi vội hỏi.
Ngu Mặc rút về, trên tay cầm mũi thương xương lấy từ chỗ Thái Tuế, cái này dài bằng cẳng tay chính là thứ vừa được phóng ra khi nãy.
Anh trầm giọng nói:
“Hình người, tay chân dài nhỏ, chuyển động có phần giống rắn.”
Anh liếc sang pho tượng vỡ vụn, bổ sung:
“Phần thân dưới, trông khá giống cái thứ này.”
Thình! Thình thịch!
Bất ngờ, từ dưới bệ tượng thờ phát ra tiếng gõ.
Ngu Mặc lập tức đẩy tượng sang bên, bẩy ván sàn lên.
Một người từ bên dưới bò ra, mặt mày hoảng hốt:
“Trời cao có mắt, cuối cùng cũng thoát rồi!”
Đó là một người đàn ông trung niên hơi mập mạp.
Vừa thấy chúng tôi, ông ta vội vàng thốt lên:
“Các anh là người của ông chủ Thương phải không?”
“Anh là ai?” – tôi giữ vẻ bình tĩnh.
Người đàn ông xúc động, đáp dồn dập:
“Tôi là Vương Đào Kiệt! Chính tôi gửi đồ cho ông chủ Thương đó!”
Tôi sững lại, thì ra người này chính là Vương Đào Kiệt.
“Đồ là của anh gửi?” – tim tôi chợt lạnh. – “Vậy Lão Đao đâu?”
Vương Đào Kiệt gật đầu lia lịa:
“Ông Đao nhờ tôi gửi đi, rồi lại quay vào núi.”
Tôi vội hỏi tiếp:
“Ông ấy không để lại lời nào sao?”
“Không có.” – ông ta lắc đầu, thở dồn – “Nhưng tôi biết, ông ấy đi tìm dân làng rồi.”
Dân làng… đều đã vào Thần Nông Giá…
Một dự cảm chẳng lành dâng lên trong tôi:
“Họ vào đó làm gì?”
Vương Đào Kiệt nuốt khan, ánh mắt sợ hãi liếc về phía pho tượng:
“Mười mấy ngày trước, trong núi đào được thứ gì đó.”
Ông ta run rẩy, hạ giọng:
“Họ… đều vào núi để dự Bách Thảo Yến.”
Dưới sự truy hỏi của tôi, Vương Đào Kiệt kể lại toàn bộ sự việc.
Mười mấy ngày trước, có dân làng lên Thần Nông Giá hái thuốc, rồi tình cờ đào được mấy chiếc bình gốm cao ngang nửa người.
Họ tưởng là đồ cổ quý, liền bí mật mang về nhà.
Ai ngờ chỉ sau hai ngày, những người đó đều biến mất kỳ lạ.
Trong nhà chỉ còn ngổn ngang những mảnh gốm vỡ, xung quanh loang lổ thứ dịch nhầy xanh mủ, bết dính khắp nơi, giống hệt vết rắn bò qua.
Các bô lão trong làng biết chuyện, vội kêu trưởng thôn dẫn người vào núi, bắt mọi người dự Bách Thảo Yến.
“Kết quả là… chẳng ai trở về nữa.” – Vương Đào Kiệt thở dài. – “Chắc là gặp phải Dược Tiên rồi.”
Tôi nhíu mày.
Bách Thảo Yến, từ ngữ này tôi đã từng được nhắc đến trong quyển Sơn Hải Lục tổ truyền.
Tương truyền, Thần Nông vì muốn trừ bệnh khổ cho dân, đã thề nếm thử hết thảy cỏ cây.
Mỗi lần thu được linh thảo, ông đều chế thành thuốc ăn, mời tộc nhân dự tiệc.
Gọi là: Bách Thảo Yến.
Nhưng dân làng nói tới Bách Thảo Yến, e chỉ là một tục lệ địa phương.
Tôi lấy lại bình tĩnh, nghi hoặc hỏi:
“Còn cái gọi là Dược Tiên, là gì?”
“Chính là nó.” – Vương Đào Kiệt run giọng, chỉ vào pho tượng đã đổ – “Tôi vừa nghe thấy tiếng của nó, các anh hẳn cũng gặp rồi.”
“Truyền thuyết kể rằng Dược Tiên là thú cưng của Thần Nông, từng thay ngài thử qua vô số vị thuốc. Xưa nay làng tôi thờ phụng Dược Tiên, cầu sức khỏe bình an. Sau này mới phá bỏ tập tục, ngôi miếu cũng dần bị bỏ hoang, chẳng ai dựng lại.”
Ông lau mồ hôi:
“Ông Đao vào núi, còn tôi thì ở lại. Khi thấy thứ quái vật kia lảng vảng trong làng, tôi sợ quá, chui luôn xuống dưới pho tượng trốn. Ai ngờ nó đổ, giam tôi luôn bên trong.”
Ngu Mặc lạnh lùng xen vào:
“Nếu mọi người đều vào núi, sao ông không đi?”
Vương Đào Kiệt ngượng ngập:
“Hôm đó ông Đao đến, tôi phải ở lại đợi ông ấy. Với lại, tôi cần cầu gì trường thọ chú? Đến tháng sau mà không có tiền, chủ nợ cũng đánh c.h.ế.t tôi thôi.”
Không lạ gì chuyện trước đó, khi ông ta gọi cho tôi nói cần tiền gấp.
Nói rồi, Vương Đào Kiệt dẫn chúng tôi đến trước một căn nhà đất:
“Chính ở đây, họ đào được bình gốm.”
Tôi gật đầu, bước vào theo.
Trong phòng khách, dễ dàng nhận ra ba đống mảnh gốm.
Dù dịch nhầy đã khô, nhưng dấu vết lan tỏa vẫn còn, từ chỗ mảnh gốm tập trung nhiều nhất, tỏa dần ra xung quanh như sóng uốn lượn.
Tôi khẽ hít mũi, thoang thoảng một mùi tanh kỳ dị của đất.
Trong lòng đã đoán được đôi phần, liền hỏi:
“Còn chiếc bình gốm của anh…?”
“Ông Đao mang vào núi rồi.” – Vương Đào Kiệt vội đáp – “Ông ấy còn mở cả nắp niêm phong ra.”
Tôi truy vấn:
“Bên trong có gì?”
“Ông chủ, bình đã mở niêm, số tiền…”
Chưa kịp dứt câu, mũi thương xương của Ngu Mặc đã kề ngay cổ họng ông ta.
“Tôi nói! Tôi nói ngay!” – Vương Đào Kiệt hoảng loạn giơ tay, cuống quýt thốt lên:
“Là… một mảnh vải!”
“Một tấm vải liệm đẫm máu!!!”
Tôi không vội lên tiếng, chỉ lặng lẽ chờ đợi.
Thấy thế, Vương Đào Kiệt liền khai tuốt tuồn tuột.
Hôm đó, Lão Đao phát hiện chiếc bình gốm của Vương Đào Kiệt có nhiều nét giống với mấy cái bình đào được trong núi, bèn mở niêm phong.
Khi mở ra, từ trong đó lôi ra một mảnh vải đẫm máu.
Vương Đào Kiệt vốn không biết đó là vải liệm quấn xác, sau này mới nghe chính miệng Lão Đao nói lại.
Nói đến đây, ông ta chần chừ:
“Trong bình chắc chắn còn thứ khác…”
Tôi nở nụ cười nhạt:
“Ồ?”
“Lúc đó ông Đao không cho tôi xem bên trong.” – Vương Đào Kiệt cười gượng – “Nhưng cái bình này vốn đặt trong nhà cũ tôi nhiều năm rồi.
Ngày trước tôi từng lắc thử, bên trong có tiếng va đập nặng nề, cho nên không thể chỉ có một mảnh vải liệm.”