Mỹ Nhân Sứ

Chương 5

Những tiếng nổ liên tiếp vang lên phía sau, núi rung chuyển, bụi mù bay lên, lò cổ bị chôn vùi trong đồi.

Anh rể nói: “Nhanh đi, làng sẽ sớm hỗn loạn, chúng ta đi gặp chị để nhân lúc hỗn loạn chạy ra khỏi làng.”

Nói rồi, anh ôm lên người tượng Từ Nương Nương mà không biết khi nào đem ra được.

Tôi ngạc nhiên hỏi: “Anh rể, sao anh còn mang theo nó?”

“Ra ngoài chúng ta phải kiếm kế sinh nhai, tôi đã nghĩ rồi, tôi vẫn làm đồ sứ, tượng này có thể phù hộ cho chúng ta làm ra đồ tốt, không thể bỏ lại. Em yên tâm, tôi chuyên tâm làm gốm nuôi chúng mình, tay nghề của tôi nhất định sẽ cho chúng ta cuộc sống tốt.”

“Tuy nhiên…”

“Em đừng ‘tuy nhiên’ nữa, mau đi, mấy chuyện tàn ác kia chúng ta không làm, và cũng sẽ không làm.”

Tôi luôn thấy Từ Nương Nương nhuốm quá nhiều máu người, có điều gì đó ma quái.

Muốn thuyết phục anh rể bỏ lại tượng, nhưng anh là thợ nghề, dường như đã quyết lòng, tôi đành bỏ qua.

Chúng tôi nhân lúc hỗn loạn trốn khỏi làng.

Trên đường, tôi kể chuyện cái bình cho chị hai nghe.

Chị hai khuyên: “Tiểu Nhã, anh rể thật thà chịu khó, tính tình tốt. Anh ấy chỉ mê nghề làm gốm, để anh ta mang theo đi.”

Thấy chị hai nói vậy, tôi cũng không nỡ nói thêm.

Nửa tháng sau, chúng tôi lạc chân ở một thị trấn nhỏ hẻo lánh rất xa quê.

Qua nửa năm bươn chải, xưởng gốm của anh rể bắt đầu hoạt động.

Chủ yếu làm chén bát, anh trộn xương bò xương cừu vào đất nặn, sản phẩm xương sứ sáng trong, như tác phẩm nghệ thuật khiến người ta mê mẩn.

Tôi và chị giúp anh làm tay chân, anh truyền hết nghề cổ cho chúng tôi.

Năm năm trôi qua, anh rể trở thành người thợ gốm cổ truyền có chút danh tiếng, cả danh lẫn lợi.

Ngà̀y ngày anh thành kính cúng bái Từ Nương Nương, say mê mài giũa kỹ thuật, muốn tạo ra chiếc bình ngọc thực sự lưu truyền muôn đời.

Anh như kẻ cuồng, ngày đêm bên lò, quên ăn quên ngủ.

Tôi lo lắng đôi chút về trạng thái của anh rể, chị cũng lộ vẻ ưu tư.

Một ngày nọ, anh rể về nhà với vẻ mặt ôn hòa nói: “Để thành tâm cúng bái Từ Nương Nương, từ nay tụi mình ăn chay. Ồ, đừng nghĩ lung tung, tôi chỉ cảm thấy Từ Nương Nương là thể linh, không chịu nổi ô trọc trần tục, nếu tụi mình giữ xác sạch sẽ đến bái nàng, chắc nàng sẽ vui.”

Tôi nghe vậy rùng mình, nhìn chị hai lo âu.

Chị chợt sững rồi mỉm cười: “Thuận nói đúng, từ mai tụi mình ăn chay.”

Nửa năm sau, anh rể ra ngoài rồi mất tích.

Chị khóc như cắt ruột xé gan, chúng tôi tìm nhiều ngày không thấy tung tích, cuối cùng phải báo cảnh sát cầu cứu.

Nhưng vì vùng xa xôi hẻo lánh, không có camera, không có nhân chứng, chẳng ai thấy gì.

Mấy tháng kiếm khắp nơi vẫn không thấy người, không thấy xác.

Sự mất tích của anh rể cuối cùng thành một ẩn đố.

Không có anh rể, xưởng gốm vẫn phải vận hành.

May mà tôi và chị đã thành thạo nghề gốm.

Chúng tôi tin rằng không cần Từ Nương Nương phù hộ vẫn có thể làm ra đồ tinh mỹ.

Khi mở lại xưởng, chúng tôi đã đập nát tượng Từ Nương Nương từng thờ suốt cả trăm năm.

Sau đó, chúng tôi chỉ dùng xương bò xương cừu để nung chén bát.

Dùng kỹ thuật cổ, sản phẩm bán không đủ cầu.

Còn mỹ nhân sứ, để nó biến mất khỏi đời này mãi mãi.

— Ngoại truyện: Chị hai Tôi là cô gái được nuông chiều trong làng.

Từ nhỏ mẹ đã dặn: “Con gái làng mình chỉ được ăn chay, vì như vậy mới nuôi được cô gái trong trẻo như hoa sen nguồn nước, chỉ người như thế mới gả được về thành phố hưởng phúc.”

Theo tục làng, những cô gái như tôi trước mười tám tuổi không được quen người yêu.

Nhưng sáu mươi tuổi… (sửa) Vậy mà năm mười sáu, tôi gặp chàng trai trong làng tên Thuận Tử.

Anh cứu tôi khỏi miệng rắn độc, lấy thuốc trong rừng giải độc cho tôi.

Dù anh mồ côi, anh biết đủ việc: mộc, hái dược, làm gốm… còn thích lắp đặt đủ thứ đồ, nói là ông nội đã dạy.

Lâu ngày chúng tôi nảy sinh tình cảm, muốn sống cùng nhau.

Nhưng quy củ của làng như hào sâu ngăn cách chúng tôi, chúng tôi không thể trốn thoát, tình yêu không thể thành.

Lúc đó Thuận đã làm việc trong lò cổ, anh lén nói cho tôi bí mật trong lò: con gái gả ra thành phố là lời dối trá, thực tế là con đường dẫn đến cái chết.

Sắp đến mười tám, để sống còn và để ở cùng Thuận, tôi buộc phải quyết liệt, giả vờ ngã gãy chân.

Khách đặt mua mỹ nhân sứ đòi cô gái không tì vết, tôi bị gãy chân tất nhiên bị loại.

Cha mẹ thất vọng vì sính lễ cao vuột mất, đánh đập chửi rủa tôi.

Nhận được không ít sính lễ, tôi như ý cưới được Thuận.

Cũng từ đó, tôi nhìn rõ kết cục của tất cả chúng tôi.

Người làng chết đi rồi cuối cùng thành vật liệu của lò.

Xương máu của chúng tôi là một phần trong đồ sứ, có thể là bát, có thể là chén.

Tôi là cô gái bị nuôi bỏ phí, cha mẹ tham lam tự nhiên nhắm tới em gái Tiểu Nhã.

Từ nhỏ đến lớn, tôi và em tâm sự mọi chuyện, thân thiết như đôi bạn, làm sao tôi có thể đứng nhìn em bị giết?

Tôi phải cảnh báo em trong sinh nhật chị họ để em tìm cách chạy thoát.

Nhưng một cô gái chưa từng ra khỏi làng, làm sao chạy trốn dễ dàng.

Thuận là thợ nghề, anh căm ghét việc làng dùng xương máu thiếu nữ làm mỹ nhân sứ.

Ông nội anh trước kia là người tài, thường làm thuốc nổ thủ công, hay dắt Thuận đi đánh cá bằng cách nổ ở sông.

Ông mất, để lại nhiều nguyên liệu.

Thế nên chúng tôi âm thầm mưu một cách một lần cho tất cả, muốn chấm dứt tội ác của làng.

Khi Tiểu Nhã chạy trốn bị bắt, cuối cùng tôi có cơ hội tiếp cận em.

Tôi và em thỏa thuận lén lút, để em phối hợp trong lò.

Mọi thứ theo kế hoạch, ba chúng tôi trốn khỏi làng, ở thị trấn xa xôi tự lập nhờ nghề gốm, cuối cùng có được cuộc sống mơ ước.

Nhưng lòng người tham vô đáy, có danh có lợi, Thuận dần sa ngã, quên đi ban đầu.

Bi kịch của Từ Nương Nương không thể tái diễn nữa.

Tôi nghĩ cách duy nhất là đập nát nàng hoàn toàn.

Tôi và Tiểu Nhã tin rằng không có Từ Nương Nương, chúng tôi vẫn có thể nung ra đồ sứ tinh mỹ.

Hết-

Chương trước
Chương sau