6
Sau đó bà đập giường “thình thình” gọi bố tôi dậy mua cơm.
Người nhà giường bên sợ ảnh hưởng giấc ngủ của vợ mình, chỉ nhắc nhỏ bà.
Ai ngờ bà nổi cơn đ.á.n.h nhau với đàn ông thật.
May mà người ta nể bà là bệnh nhân, chứ không là ăn đòn.
Bố tôi đứng bên can, luôn nói bà sai.
Cuối cùng bác sĩ phải khuyên xuất viện.
Nửa năm sau bà mới dám xuống giường.
Có lẽ bà thấy uất ức, liền đi Hắc Long Giang tìm con trai.
Và rồi “vở kịch” hổ vồ bà diễn ra. Bà còn “tặng” hổ Đông Bắc vài miếng thịt.
Nghe nói con trai bà thuê nhà ở đó, ai ngờ hổ hoang vào làng.
Bà thì mê xem náo nhiệt, hổ lao tới bà còn nói:
“Không sao đâu, xa năm sáu chục mét mà, động vật sợ người, không cần chạy!”
Hổ hoang táp thẳng, không màng sống chết. Nghe nói bà gục xuống mà còn rơi nước mắt.
Con trai bà thì chạy mất dép. Cũng may, nó gọi hàng xóm tới cứu.
Đối mặt hổ hoang chỉ hai kết cục: thắng thì “Võ Tòng đả hổ”, thua thì “hổ ăn bà già”.
Rõ ràng mẹ tôi là loại thứ hai.
May dân làng nhiệt tình, người báo cảnh sát, người vung xẻng, đuổi được hổ.
Nghe nói bà nằm xuống vẫn còn khao khát sống:
“Con trai… gọi 120 nhanh, mẹ chưa chết, phải cứu!”
Có những chuyện chỉ dám cười thầm.
Tôi nghĩ hổ cũng mơ mà trách mẹ tôi: “Không để yên ở Sơn Đông, còn mò lên đây phá hổ, bọn tôi là hổ hoang, không biên chế!”
Bà vốn đã bị gốc cây đập, giờ bị hổ “gặm” nữa, tứ chi mềm nhũn.
Lại nằm viện nửa tháng, may mà sụt được ít cân.
Sau đó con trai đưa bà về.
Thoát c.h.ế.t trong gang tấc, bà khập khiễng khắp làng, khoe:
“Con hổ mấy trăm cân cũng sợ tôi!”
Nhưng chẳng lâu, bà lại bị xuất huyết não suýt đi. May mà liệt giường nhưng còn ý thức.
Bố chăm chưa đầy tháng, bà đã loét lưng.
Tình yêu ít ỏi còn lại của họ cũng thối rữa theo vết loét ấy.
Một hôm, bà bảo tôi muốn ăn vịt quay. Nghe mà ký ức đau khổ lại ùa về.
Hồi tôi 5 tuổi, bà mua một đôi vịt con bỏ trong lồng nuôi.
Vịt con rất dễ thương, cuốn hút tôi.
Tôi nghĩ thứ đáng yêu như vậy không nên bị nhốt, nó phải nhảy nhót ngoài sân.
Tôi với chị thả hai con ra.
Trong sân có giếng, vịt con vô tình “đáng yêu” luôn xuống giếng.
Cả hai c.h.ế.t đuối, “công bằng” lắm.
Mẹ tôi từ đồng về nhà, khi biết đôi vịt mới mua bị c.h.ế.t đuối, không chút do dự, liền vớ ngay cây chổi ở cửa đ.á.n.h chúng tôi.
Nói chính xác hơn, là đ.á.n.h mỗi mình tôi.
Cây chổi đ.á.n.h rất đau, mà tôi dù né thế nào, cơn đau vẫn luôn rơi đúng vào người tôi.
Chị tôi đứng bên cạnh khóc lóc t.h.ả.m thiết, run rẩy sợ hãi, nhưng chẳng cần né, trên người chị chẳng có chút thương tích nào.
Từ lúc đó, tôi bắt đầu ghét vịt, và càng căm ghét chổi.
Cho đến tận bây giờ, nhà tôi chưa từng dùng lại một cây chổi nào — nhưng vịt quay thì vẫn ăn như thường.
Vì vậy, khi mẹ hấp hối, nói muốn ăn vịt quay, tôi hỏi bà:
“Bà muốn ăn món đó từ bao giờ vậy?”
Và tôi nói thêm:
“Thứ đó là cám mịn, mẹ ăn không quen đâu!”
Thật ra, tôi rất muốn nói thẳng với bà:
“Vịt sớm đã c.h.ế.t đuối rồi, lấy đâu ra vịt quay mà ăn nữa!”
Chị tôi đưa cho tôi một quả chuối chín mềm. Tôi tiếc không nỡ ăn, bẻ một miếng đưa đến miệng mẹ:
“Không có vịt quay đâu, mẹ ăn tạm miếng chuối này nhé!”
Nào ngờ, bà vừa ăn một miếng liền bị nghẹn, tay trái còn cử động được quơ loạn, mắt trợn to, môi từ tím đỏ chuyển sang tái nhợt — cuối cùng c.h.ế.t vì ngạt thở.
Tôi chỉ cảm thấy hơi áy náy một chút, rồi liền bình thản trở lại. Có lẽ, đó mới là kết cục tốt nhất cho bà.
Mẹ tôi ra đi, nhưng không hề thanh thản. Giống như kết cục của “Hoàng hậu Đại Quý phi” trong Chân Hoàn Truyện: vừa đáng giận, vừa đáng thương.
Bà chưa từng thật lòng yêu bất kỳ đứa con nào.
Còn bọn tôi, từ khao khát được bà yêu, dần dần trở thành oán hận sâu sắc, và cuối cùng là dửng dưng cho đến lúc bà chết.
Cuộc đời của mẹ tôi — là một sự thất bại toàn tập.
Chị tôi hận mẹ, vì chính sự nuông chiều mù quáng của bà đã khiến chị không nên người, lập gia đình rồi càng lắm bất hạnh, đầy trắc trở.
Bố tôi hận mẹ, vì bà không phải người vợ tốt, cũng chẳng phải người mẹ đủ tư cách.
Đứa con trai riêng kia cũng hận bà — vì bà chỉ “sinh mà không nuôi”, chưa từng cho nó tình yêu nào, chẳng phải là một người mẹ đúng nghĩa.
Tất nhiên, tôi cũng hận mẹ, chỉ là nỗi hận của tôi quá đỗi nhợt nhạt và bất lực.
Vì yêu thương nhận được đã ít, thì hận cũng chẳng thể sâu.
Ngược lại, mẹ chồng tôi lại là một người phụ nữ có một cuộc đời hoàn mỹ.
Chỉ với một món "bí ngòi hầm cà tím", bà đã xoa dịu trái tim vỡ vụn của tuổi thơ tôi.
Bà thành công ở mọi mặt:
– Có con trai hiếu thảo
– Có con dâu xem bà như mẹ ruột
Tâm hồn bà giản đơn và thuần khiết, giống như chính những món ăn bà nấu vậy.
Còn với tôi, món “bí ngòi hầm cà tím” ấy luôn là cao lương mỹ vị, là mâm cơm đầy ắp tình yêu thương, xoa dịu bất hạnh thuở bé.
So sánh với bà, tình thương của mẹ ruột tôi thì vừa đơn điệu, vừa không trong sáng, mà toan tính thì như một bàn tiệc “mãn hán toàn tịch”.
Mẹ thiên vị, ích kỷ, trọng nam khinh nữ, mê chiếm lợi nhỏ — hội tụ đủ khuyết điểm điển hình của một phụ nữ nông thôn thiển cận.
Bản chất mẹ tôi là:
Ngu dốt và ích kỷ.
Bà chẳng yêu ai, chỉ yêu chính mình.
Bà m.a.n.g t.h.a.i tôi — vì bản năng sinh sản nguyên thủy của loài người.
Bà sinh tôi ra — vì tưởng rằng tôi là con trai.
Bà không bỏ rơi tôi — vì không ai nhận nuôi.
Bà nuôi tôi — chỉ vì hy vọng sau này tôi nuôi lại bà.
Thật ra, tôi vẫn phải cảm ơn mẹ, cảm ơn bà đã không giết, không bạo hành tôi — nhờ đó tôi mới có cơ hội lớn lên, và gặp được quý nhân trong đời mình: mẹ chồng và chồng tôi.
Những đứa trẻ được bố mẹ nâng như nâng trứng thường sẽ không biết nấu ăn — mẹ chồng tôi là thế, chồng tôi cũng vậy.
Chỉ những gia đình hạnh phúc, mới có thể nuôi dạy nên những đứa con có tình yêu và biết trao yêu thương.
Tôi biết ơn mẹ chồng, vì tuy món bà nấu không phong phú, nhưng trong món ăn ấy có cả bốn mùa.
Đĩa bí ngòi hầm cà tím kia, từ lâu đã trở thành hy vọng sống của một bé gái nhỏ bé, đáng thương và bất lực.
Kết thúc.