Chương 1
Thời đó, chưa chồng mà có con là chuyện bị người đời chỉ trỏ. Dù cả làng đều biết tôi không phải con dì, nhưng việc dì mang danh “mẹ đơn thân” lại khiến chẳng ai dám ngó ngàng chuyện cưới hỏi.
Đến sáu tuổi, tôi tình cờ nghe được người lớn nói chuyện, mới biết được chân tướng. Trong cơn tức giận, tôi chạy về nhà mẹ ruột, đ/ập n/át nồi niêu xoong chảo, còn lấy d/ao ch/ém cả bàn gỗ tan tành.
Nhà không có người lớn, chỉ có thằng em trai bốn tuổi – Dương Quốc đứng nép góc tường, hoảng sợ khóc đến nước mắt nước mũi tèm lem. Tôi quay lại lườm nó một cái:
“Khóc cái gì mà khóc! Đồ con ho/ang!”
Đó là lần đầu tiên tôi mắng nó. Trước đó, tôi thậm chí còn chia kẹo cho nó ăn.
Tôi vốn không biết “c/on h/oang” nghĩa là gì, chỉ biết trong làng có người từng ch/ửi tôi như thế. Mỗi lần nghe, dì út lại vội bịt tai tôi kéo đi. Dần dà, tôi hiểu đây không phải từ tốt đẹp gì.
Về sau, tôi mới biết có người bịa chuyện rằng tôi là con rơi của dì với gã đàn ông nào đó, để giữ thể diện nên mới đẩy cho mẹ tôi. So với cái sự thật “một đứa con gái bị r/uồng b/ỏ”, thì chuyện “ngoài giá thú” còn hấp dẫn thiên hạ hơn, đủ để họ xì xào làm trò tiêu khiển.
Tối hôm đó, tôi lén chạy về, dì đang thái rau trong bếp, thấy tôi liền cau mày:
“Đi đâu mà về muộn thế? Bảo đi nhặt củi cơ mà?”
“Con quên mất rồi, giờ đi nhặt đây!” Tôi hổn hển vác sọt, còn bị dì khẽ đá một cái.
“Con ra/nh, lo mà tận hưởng nốt mấy ngày rảnh rỗi đi. Tháng sau là phải đi học rồi.”
Tôi hét toáng lên:
“Con không đi học! Đi học thì lấy ai làm việc nhà? Con bé Vương Nhị Nha hàng xóm cũng đâu có đi học!”
“Xạo! Mày không đi học tao đ/ánh ch/ết mày! Con khỉ của mẹ mày sau này cũng phải đi học, nếu mày học không bằng nó, tao v/ứt mày vào chuồ/ng lợ/n cho mà ăn cám!”
Lưỡi d/ao trong tay dì nện cái “cạch” xuống thớt, làm tôi im bặt.
Dì từng được đi học vài năm, nhưng mới học hết tiểu học thì bị ông ngoại bắt nghỉ, nhường cơ hội cho bố tôi.
Từ đó, giấc mơ chữ nghĩa mãi là cái gai trong lòng dì. Nhìn bạn bè cùng lớp giờ có việc ở trạm y tế, ngày ngày nhàn nhã, dì càng nuốt không trôi nỗi hối tiếc ấy.
Không thể thay đổi số phận mình, dì đặt hết hy vọng lên người tôi. Tôi mới bốn tuổi đã bị dì dạy ê a mấy chữ cái, nhưng dì cũng chỉ biết lõm bõm, dạy được chừng chục chữ cái thì đành bỏ dở.
Ngày hôm ấy, khi tôi vừa vác sọt củi về, đã thấy mẹ ruột đứng trước cửa, mặt hằm hằm, thịt trên mặt run bần bật:
“Con đ*! Lá gan to rồi hả? Mày dám về nhà tao đ/ập p/há? Cái thứ ch/ó m/á gì thế hả? Là cô mày dạy mày đúng không? Nếu sớm biết mày bị nuôi thành cái loại chanh chua chua ngoa này, tao đã chẳng để lại cho cô mày nuôi từ đầu!”
Tôi gào lên:
“Rõ ràng là chính bà v/ứt b/ỏ tôi! Còn dám lừa tôi nói dì út xin nuôi! Đồ không biết xấu hổ!”
“Cái con ch/ó ch/ết t/iệt này! Ai mang nặng đẻ đ/au mười tháng trời cho mày chứ hả?!”
Bà ta ngẩng cao đầu, chẳng hề xấu hổ khi lời nói dối bị lật tẩy.
Dì út nghe vậy cũng không chịu nổi, hai người vốn chẳng mấy khi qua lại, giờ đứng đó đ/ấu kh/ẩu, từ chuyện sinh con, chuyện cha mẹ thiên vị cho đến cả vụ ớt năm xưa.
Tôi thì tránh né cái t/át của mẹ, đầu ong ong, tức tối quay sang giáng một cái b/ạt t/ai vào mặt thằng Dương Quốc. Tôi làm việc nhà quen tay, sức mạnh không nhỏ, cái t/át khiến nó òa khóc nức nở.
Cả phòng im phăng phắc, chỉ còn tiếng khóc xé lòng của nó.
“Con trai tôi trời ơi!”
Mẹ tôi xông tới, xô mạnh khiến tôi loạng choạng suýt ngã.
Tôi ngẩng cao đầu, nuốt ngược mấy giọt nước mắt:
“Có giỏi thì đeo nó bên hông mà giữ! Bằng không, bà mắng tôi một câu, tôi đ/ánh nó một trận! Để xem bà có cản nổi không!”
Lần này bà im bặt, chỉ ôm con trai quay đầu bỏ đi.
Bữa cơm tối hôm ấy, dì nghiêm mặt hỏi:
“Nói thật, mày vì sao lại đ/ập phá nhà bà ấy?”
Tôi bỏ đũa, bĩu môi:
“Vì bà ta l/ừa con!”
Trong đầu tôi khi ấy, chỉ có đúng một lẽ: bà ta v/ứt b/ỏ tôi, lại còn n/ói d/ối. Vậy bà ta là k/ẻ x/ấu, tôi không cần thứ mẹ như thế, thà cả đời c/ắt đ/ứt quan hệ.
Dì khẽ thở dài, không trách phạt, chỉ lấy ra hai viên kẹo, một đưa cho tôi, một ngậm vào miệng mình:
“Con còn nhỏ, nghĩ đơn giản quá. Đợi đến khi đi học, hiểu biết nhiều hơn, con sẽ hiểu.”
Tôi không hiểu. Dì và mẹ đều chẳng học mấy năm, thế mà sao họ lại “hiểu”, còn tôi thì phải chờ lớn? Nhưng tôi không cãi, ngoan ngoãn gật đầu.
Tôi nghĩ, ít nhất mình không thể để thằng Dương Quốc sau này học giỏi hơn mình, bằng không, mẹ sẽ càng ngẩng cao đầu, đến lúc ấy dì út chẳng còn lý lẽ để cãi nhau.
Vì chuyện cho tôi đi học, dì đã cãi nhau một trận dữ dội với ông bà nội. Ông bà vốn tin “con gái học nhiều chỉ hư thân”, cuối cùng chẳng hiểu sao lại nhượng bộ.
Dì về nhà, trên mặt in hằn vết t/át, đôi mắt đỏ hoe, giọng run run:
“Mày phải học cho giỏi, học đến nơi đến chốn, nếu không… mày phụ lòng tao lắm đấy.”
Tôi nghe mà lòng đau như có ai dùng búa đ/ập liên hồi, chua xót đến mức chỉ biết c/ắn răng thề thốt: nhất định phải học thật giỏi.
Một tháng sau, dì đưa cho tôi chiếc cặp vải tự may. Lót trong bằng bao tải, bên ngoài bọc vải cũ đã bạc màu, nhưng dì khéo tay, còn thêu thêm mấy ngôi sao. Sao ấy cũng là “Thần” trong cái tên Tư Thần của tôi.
Tôi ôm chiếc cặp, mang theo lời hứa thầm lặng trong tim, bước vào con đường học tập.
2
Trường tiểu học trong làng rất sơ sài, học trò toàn là người quen trong mười dặm tám làng, thân phận của tôi vốn chẳng phải bí mật gì.
Có mấy đứa trẻ tròn mắt, ánh nhìn vừa trong vừa hiếu kỳ, đẩy tôi ra một bên hỏi:
“Ê, Thẩm Tư Thần, cậu thật sự là con của dì với đàn ông hoang ngoài kia à?”
“Thế thì không gọi là dì nữa chứ, phải gọi là mẹ mới đúng…”
“Đàn ông hoang là gì vậy?”
Chúng ríu rít vây quanh, mỗi đứa chen một câu, chẳng cho tôi cơ hội đáp lại.
“Đàn ông hoang chính là kẻ lang thang! Thẩm Tư Thần là con của dì cô ta với kẻ lang thang đó đấy!”
“Lang thang? Tôi gặp rồi! Ngày nào cũng ngồi ở đầu làng, hóa ra đó là cha của nó à, ha ha ha!”
“……”
Tôi bị chúng vây đến mức không thở nổi, tiếng tim đập còn vang hơn cả tiếng cười nhạo hỗn loạn, tai nóng bừng, chẳng biết giải thích sao. Muốn phản bác, nhưng tận sâu trong lòng lại thấy việc bị mẹ ruột vứt bỏ cũng chẳng khá hơn lời đồn kia là bao.
Cuối cùng, vừa ném vừa đá, tôi đánh nhau với cả đám, trên người lãnh đủ mấy cú, áo sơ mi cũ bung chỉ, thầy chủ nhiệm chậm chạp tới mới lôi bọn tôi ra.
Dì út đến đón tôi về, dọc đường không nói câu nào, tới cửa nhà mới dừng lại, trầm giọng nói:
“Đừng quan tâm người ta nói gì, lo mà học hành cho tử tế. Học tốt rồi rời khỏi cái làng này mới nên người được.”
“Nhưng bọn nó chửi con!” Tôi nghẹn cổ, bực bội.
“Chửi thì coi như không nghe. Người ta có cha mẹ làm chỗ dựa, con không có, nhịn vài câu rồi thôi. Bịt tai mà học, biết chưa!”
Tôi nén giận, nước mắt chực trào, vụi loạn lau đi rồi quay vào phòng nằm bẹp.
Chỗ bị đá trên người vẫn nhức nhối, gối bị nước mắt thấm lạnh, làm má tôi run rẩy.
Tuần học đầu tiên, chẳng học được gì, chỉ ôm một bụng tức. Ở trường bị bạn bắt nạt, về nhà lại bị dì lải nhải, ngày nào cũng chỉ bốn chữ “học cho giỏi”, chẳng có gì khác.
Thực ra trước khi đi học, dì cũng lải nhải chẳng ít. Dì út tính lúc cứng lúc mềm, khó đoán, bà nội bảo dì chỉ biết hống hách trong nhà, ra ngoài thì co vòi.
Sau này lớn lên tôi mới hiểu, dì ngoài đời không dám cứng là vì không có chỗ dựa. Nhà chẳng ai chống lưng, nên dì sớm học cách thu mình, không dám gây chuyện.
Tôi quay mặt vào tường, nước mắt cứ thế rơi. Chẳng bao lâu nghe tiếng bước chân:
“Tiểu Thần, xuống ăn cơm đi.”
Đó chính là chiếc thang dì thả xuống, cho tôi có cớ thôi dỗi. Tôi miễn cưỡng ngồi dậy, lê la xuống bàn.
Hôm nay cháo có thêm một quả trứng. Bình thường ba ngày mới có một quả, nay có thêm một, đó là cách dì an ủi bù đắp.
Quả trứng ấy tôi nuốt cùng nước mắt. Từ đó trở đi, tôi học cách thu tính ngoài mặt, như dì nói, gây chuyện ra ngoài dì chẳng xử cho, cho tôi ăn một miếng cơm đã là hết tình.
Cha mẹ ruột thì càng không mong cậy. Chuyện ở trường truyền vào tai họ, mẹ tôi khinh bỉ nhổ toẹt một bãi, mắng cha tôi:
“Con tiểu tiện kia vốn không yên thân! Mới mấy ngày đã gây chuyện! Nuôi giỏi lắm, nuôi được cái giống tốt thế!”
“Không vừa mắt thì đem về mà nuôi! Dù sao Dương Quốc cũng bốn tuổi rồi, kế hoạch sinh cũng chẳng quản nữa.”
“Tôi thèm nuôi chắc! Hôm đó mày không thấy nó định đánh chết Dương Quốc sao? Thật mang về thì thằng nhỏ tính sao?!”
Thằng nhỏ bốn tuổi cũng hiểu đôi chút, Dương Quốc ném bát, la lớn: “Con không muốn con tiện kia về nhà! Con không thích chị!”
Mẹ tôi vội dỗ: “Không về, không về, nhà mình chỉ có mình con thôi!”
Lúc ấy nhà mới yên lại.
Những lời này là dì Vương hàng xóm kể cho tôi nghe. Mồm bà to, khoái nhất là nghe người ta cãi rồi thêm mắm dặm muối truyền đi, phải mười dặm tám làng ai cũng biết mới hả. Bà chẳng ít lần bị chửi vì cái thói ấy.
Từ đó tôi hiểu mình khác bọn trẻ khác.
Tôi chỉ có thể ngậm miệng, gặp ai cũng lạnh mặt. Lâu dần, trong trường, lũ bạn hết hứng trêu chọc, chỉ cần thấy tôi là im bặt, ánh mắt lảng đi.
Bị cô lập là thứ rất ngột ngạt. Trong lớp tôi như người trong suốt, ai cũng mặc nhiên lờ đi. Với tôi mới sáu tuổi rưỡi, đó là cú đả kích lớn hơn cả việc biết cha mẹ ruột vứt bỏ mình.
Nộp bài thì quên gọi tên tôi, trò chuyện gặp tôi đi ngang thì câm nín, tiết thể dục lập nhóm, người dư lại không ai chọn chắc chắn là tôi.
Dì út thấy lũ trẻ khác ríu rít, chỉ có tôi cô độc, nhịn không được hỏi ở trường có kết bạn nào không.
“Tốt nhất dành thời gian học thêm chữ nghĩa. Bài kiểm tra này con lại đứng đầu lớp rồi.”
Sau này tôi mới biết, vì tôi từng lấy Dương Quốc ra đe dọa mẹ, bà tức nên đi rêu rao khắp nơi nói xấu tôi. Người lớn nghe thế cũng chẳng cho con cái lại gần, sợ bị tôi dạy hư.
Chính sự bừa bãi ấy của bà khiến tôi phải chịu cảnh cô lập suốt sáu năm.
May mà lúc đó tôi gần như đã quen. Năm tốt nghiệp tiểu học, tôi ổn định giữ phong độ, thi đỗ vào trường trung học huyện, mỗi kỳ mười tám đồng học phí. Dì út không có tiền, buộc phải đi vay bà nội.
“Học rồi sau này mới sống khá được. Như con trai chú Lý đầu làng, tốt nghiệp cấp hai biết chữ, giờ cũng vào văn phòng ngồi mát, chờ Tiểu Thần học xong, cùng lắm để nó trả bà.”
“Nhìn nó cái dạng đó, có hiếu được chắc? Đến mẹ ruột cũng dám chửi thẳng mặt, mày còn thương nó, thứ vô ơn ấy!”
“Thì nó cũng là cháu bà, cháu ruột bà. Chẳng nuôi ngày nào, giờ ngay một đồng học cũng tiếc, nó lấy gì hiếu kính bà?”
Cuối cùng bà nội chửi đổng, từ trong hòm khóa kỹ lôi ra một gói vải, trong bọc có mấy đồng, run run rút một tờ năm đồng đưa cho dì, còn chưa nỡ buông tay:
“Nhiều hơn thì không có, chỉ thế thôi.”
Học phí mười tám đồng còn thiếu tám, dì út lo đến mất ngủ, ngồi ngoài sân dưới ánh trăng lau nước mắt.
Tôi cũng không ngủ được. Tôi muốn đi học. Sáu năm tiểu học luôn giữ hạng nhất, đó là chút tự tôn duy nhất tôi còn. Bị thiên hạ chỉ trỏ, tôi tự an ủi rằng ít nhất học giỏi hơn họ.
“Tiểu Thần, biết vì sao dì muốn con đi học không?”
Tôi lắc đầu.
“Mười tuổi dì có một bạn nam chơi thân, là bạn cùng bàn. Nhà cậu ấy khá giả, đi học liên tục. Dì học tới lớp sáu thì nghỉ, không bằng con, nghỉ thì nghỉ thôi.”
“Sau này cậu ấy vào trường tốt hơn, vẫn nhớ viết thư cho dì. Dì đọc rất khó, cậu ấy nhắc tới nào Chu Tự Thanh, Hồ Thích, rồi cái gì…sky gì đó, dì chẳng biết một ai, không biết trả lời sao.”
“Rồi cũng dứt liên lạc.”
“Cậu ấy đẹp trai lắm, mắt to, giống con, ngày nào đi học cũng cho dì một viên kẹo. Thỉnh thoảng dì nghĩ, nếu lúc đó còn đi học, có lẽ cuộc sống giờ đã vui hơn nhiều.”
Tôi ngồi bên dì nhìn trăng, sao quanh trời chớp lóe. Bỗng tôi hiểu nguồn gốc tên mình.
“Cậu ấy tên Phương Diệu Thần, cái tên còn hay hơn tên bọn làng mình. Cha mẹ cậu ấy là người bị đưa xuống nông thôn, vốn dĩ là trí thức ở kinh thành.”
“Dì đặt cho con cái tên này, chỉ là để nhớ một chút. Giờ bao năm trôi qua rồi, ký ức đã nhạt, nhưng dì vẫn thấy, làm người có học vẫn tốt, ít ra hồi ấy có kẹo để ăn.”
Dì thở dài, bàn tay chai sạn khẽ chạm lên mặt tôi:
“Yên tâm, con có bản lĩnh học hành. Dì có phải nhịn ăn nhịn mặc cũng sẽ cho con học đến nơi đến chốn.”
Dì mới ba mươi, còn thừa sức mà làm.