CHƯƠNG 7
Chương 7:
Tôi thấy rõ một chiếc gương đồng nhỏ bị rơi xuống.
Bên trong, bà bảo mẫu mập mạp đang nấu cơm, lập tức xách d.a.o làm bếp chạy ra.
Người phụ nữ ấy vốn được thuê từ huyện bên, nói giọng địa phương, khí thế chẳng kém, lập tức lời qua tiếng lại với mẹ tôi.
Ba tôi kẹt ở giữa, xấu hổ hết chỗ nói, chỉ biết vội vàng khuyên can, rồi kéo mẹ về nhà.
Vừa bước vào cửa, mẹ đã khóc òa, trách ba không chịu giúp.
Ngày thường cứ khoe từng học võ, đến lúc quan trọng thì lại nhát cáy.
Ba tức lắm, cãi:
“Giúp cái gì? Người ta chỉ là bảo mẫu, nếu đánh nhau thật, bà ta ngã xuống đất thì tính sao? Huống hồ chỉ vì cái gương mà động thủ, truyền ra ngoài chẳng phải để cả khu chê cười à?”
Mẹ khóc dữ hơn, vừa lau nước mắt vừa nói:
“Tôi đã sớm nhận ra lão yêu tinh kia không bình thường, ông lại nói tôi ghen ghét, nói tôi là dân quê. Giờ thì sao? Chỉ cần nhìn ba cái gương đó thôi, tôi dám chắc là nhà nó giở trò rồi!”
Ba cau mày:
“Vậy… họ định giở trò gì chứ?”
Mẹ ngẩng đầu, gương mặt hiện rõ vẻ dữ tợn:
“Con trai chúng ta, Kim Đào, đã bị lão yêu tinh kia mượn thọ rồi!”
“Nhỏ tiếng thôi!” – ba hạ giọng quát, mặt vẫn rất dữ.
Quát xong, ông lại lúng túng nói:
“Cái gì… cái gì mà mượn thọ? Bà nghĩ nhiều quá rồi, sao có mấy chuyện đó được?”
Mẹ vừa lau nước mũi, vừa ôm lấy tôi, chỉ vào đầu tôi cho ba nhìn:
“Ông xem đi, nhìn xem hai bên tóc thằng Kim Đào là cái gì?”
Tôi sợ hãi đưa tay lên sờ, chẳng thấy gì.
Ba ghé sát lại nhìn, sắc mặt lập tức thay đổi:
“Sao lại có tóc bạc?”
Tôi nghe xong liền hoảng loạn, vội chạy tới soi gương.
Hai bên thái dương, quả nhiên lốm đốm vài sợi bạc, xen lẫn giữa tóc đen.
Không chỉ vậy, khóe mắt khóe miệng cũng xuất hiện thêm những nếp nhăn nhỏ.
Hai hôm phát sốt, tôi chưa từng soi gương, không biết từ bao giờ mình lại thành ra như vậy.
Tôi mới mười tuổi thôi mà, sao lại già đi rồi?
Trong lòng tôi run rẩy, đưa tay vuốt mái tóc, thấy cả mấy sợi rụng dính trên tay.
Ngay cả đỉnh đầu cũng bắt đầu rụng tóc rồi sao?
Hồi đó tôi vừa bắt đầu để ý đến diện mạo, rảnh rỗi thường soi gương, còn nghĩ sau này để tóc rẽ ngôi giữa giống Lưu Đức Hoa sẽ ngầu thế nào. Ai ngờ chưa kịp để, tôi đã già mất rồi.
Miệng mếu máo, tôi sắp bật khóc thì bỗng nhiên đau nhức răng. Vừa đưa tay sờ thì chiếc nanh bên trái đã rơi ra.
Đây là chiếc răng tôi vừa thay năm ngoái, sao lại rụng mất rồi…
Tôi òa khóc, lần đầu tiên cảm thấy bản thân sắp c.h.ế.t tới nơi.
Ba nhìn mặt tôi, kinh ngạc nói:
“Không phải là bị trúng độc đấy chứ?”
Ba làm trợ giảng khoa Hóa, biết không ít loại độc, nên lập tức nghĩ đến chuyện này.
Mẹ lắc đầu:
“Vừa mới đi bệnh viện khám xong còn gì? Chẳng ra bệnh gì hết. Giờ đi nữa cũng vậy thôi. Đây là tà bệnh!”
Lúc này ba thật sự hoảng:
“Chẳng lẽ đúng là bị mượn thọ?”
Mẹ gật đầu, rồi hỏi tôi:
“Hôm đó con ăn cái kẹo người ta cho, có phải trên đó còn hai cái lỗ nhỏ không?”
Tim tôi thắt lại. Khoảng cách xa như thế, sao mẹ biết được?
Ba nhìn vẻ mặt tôi, cũng biến sắc.
Mẹ vừa khóc vừa run giọng nói:
“Đó chính là tiền thọ mệnh. Con nhận rồi, tức là đồng ý cho người ta mượn!”
Bà chỉ về phía nhà ông Lý, nghiến răng:
“Ba cái gương kia treo không phải để trừ tà, mà là để lừa mấy dạ du thần. Sao tôi lại không nhận ra sớm hơn chứ!”
Ba dường như cũng nhớ ra điều gì:
“Mấy hôm trước có người thấy Lý lớn Lý nhỏ ăn với hai người ngoại quốc, còn bảo đi Đông Nam Á làm ăn. Hai thằng ăn hại ấy biết cái quái gì về làm ăn? Chắc chắn là bọn họ… khốn kiếp!”
Mẹ nhìn tôi, ánh mắt chợt bi thương, rồi bất ngờ nổi cơn thịnh nộ, nhảy lên đánh tôi túi bụi:
“Đã bảo đừng ăn đồ người ta đưa mà không nghe!”
Tôi sợ đến c.h.ế.t lặng, quên cả giơ tay đỡ, bị mẹ tát tới tấp, hai bên má nóng rát.
Trong cơn mưa đòn, tôi cảm giác chiếc nanh bên phải cũng rụng luôn.
Ba vội ôm lấy mẹ:
“Bà điên rồi sao?!”
Mẹ cuối cùng cũng dừng lại, đôi mắt đầy oán độc trừng về phía nhà ông Lý:
“Cả nhà mình dậy sớm làm quần quật, còn chưa kiếm nổi hai ngàn, lão ta một mình lĩnh hai vạn, sống hơn trăm tuổi không đủ, giờ còn muốn mượn thọ từ con trai tôi à? Con mẹ nó, cái trường này đúng là ăn h.i.ế.p người quá đáng!”
Ba vốn dạo này bị giáo sư Hà ở văn phòng chèn ép, đã nghẹn một bụng tức, nghe xong liền bật dậy, xách cây cán bột trong bếp ra cửa:
“Để xem lão ta còn sống được bao lâu!”
Mẹ hoảng hốt kéo chân ông lại, cả người bị lôi lê trên đất:
“Đừng! Nếu ông đánh c.h.ế.t lão ta, thì việc làm sẽ mất hết, cả nhà biết sống sao? Chuyện này chỉ có thể hiểu trong lòng, ngoài miệng không thể nói ra!”
Ba giận dữ quăng cây cán bột xuống đất:
“Vậy thì làm sao bây giờ?”
Nói xong, ông sực nhớ, liếc mẹ:
“Nhưng sao bà biết được mấy chuyện này?”
Mẹ không trả lời, chỉ vuốt tóc tôi, những sợi bạc lốm đốm ở hai bên thái dương:
“Tất cả là do cha mẹ bất tài, mới để con phải gánh cái tai họa này. Nếu ông ngoại con còn sống, chúng ta đã không phải chịu thiệt như thế.”
Nói rồi, mẹ rửa mặt, thay quần áo, lấy của ba hai trăm tệ.
Ba hỏi:
“Bà đi đâu thế?”
Mẹ đáp:
“Về nhà mẹ đẻ, gọi tứ thúc tới.”
Trưa hôm sau, mẹ dẫn ông ngoại tứ của tôi về.
Nói là “ông ngoại”, nhưng thực ra khi ấy ông mới ngoài năm mươi.
Ngày thường ông cũng chỉ làm nông, chỉ đến dịp hội chùa hay Tết Nguyên Đán mới ra chùa lo toan công việc trong chùa.
Thời đó nhà nước quản chuyện mê tín khá nghiêm, nhưng với những ngôi chùa trăm năm tuổi trong làng, vì “tôn trọng tình cảm quần chúng”, nên vẫn cho tồn tại và hoạt động.
Ông ngoại tứ của tôi trông coi miếu Hắc Gia, tính ra thì cũng xem như một người giữ miếu của miếu Hắc Gia.