Chương 3
Mùa xuân năm nay, vụ mùa không được tốt.
Trong nhà dần dần hết sạch gạo thóc.
Ta mang giỏ lên núi hái quả non của cây du — quả ấy đem hấp thành bánh, tuy đạm bạc nhưng cũng đủ lót dạ.
Như vậy phụ mẫu sẽ đỡ phải lo ngày mai lấy gì bỏ bụng.
Khi ta vừa tới lưng chừng núi, thì Hổ Tử — một tiểu tử cùng thôn — hấp tấp chạy tới gọi to:
“Ca ca ngươi có gửi thư về rồi đó! Nghe bảo ca ca ngươi giờ chỉ huy cả trăm người, oai phong lắm, ta cũng muốn làm đại tướng quân cơ!”
Ba năm rồi.
Ca ca tòng quân đã tròn ba năm, lần đầu tiên gửi thư về.
Trong lòng ta mừng rỡ khôn xiết, liền cởi dép, cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng về nhà.
Nào ngờ Hổ Tử lại bất cẩn ngã xuống hố bẫy thỏ.
Nơi này núi sâu rừng thẳm, trời lại sắp tối, ta đành phải dừng bước, trước tiên cứu hắn lên đã.
Chỉ chậm trễ một chút như vậy thôi, mà lúc xuống núi, mọi thứ đã khác hẳn.
Ngôi làng nhỏ tựa núi kề sông — đã bị biển lửa nuốt chửng.
Ngọn lửa hung tợn, như nanh như vuốt, đang l.i.ế.m cháy từng xác của dân làng.
Tiếng da thịt cháy xèo xèo vang lên, từng nhát, từng nhát, như d.a.o cắt thẳng vào tim ta.
Nước mắt ta tuôn như mưa.
Ta gào thét đến khản giọng:
“Phụ thân ơi—Mẫu thân ơi—”
Sân nhà ta cũng đã chìm trong biển lửa.
Phụ thân và mẫu thân toàn thân bê bết máu, trên người cắm đầy mũi tên, nằm bất động dưới xà nhà đang bốc cháy,
dần dần bị ngọn lửa hung tàn nuốt chửng.
Ta như kẻ điên lao thẳng vào trong.
Hổ Tử ôm chặt lấy ta, liều mạng ngăn ta xông vào biển lửa.
Phụ mẫu hắn đã c.h.ế.t ngay ở đầu thôn, cả hai đều bị một nhát xuyên tim.
Hổ Tử nghiến răng rút thanh đao ra khỏi n.g.ự.c phụ mẫu hắn, lưỡi đao sáng loáng lạnh lẽo, trên chuôi đao có khắc hoa văn bảo tướng hoa* giống hệt nhau.
*Bảo tướng hoa: là một loại hoa văn trang trí truyền thống của Trung Quốc.
Đám cường đạo kia rõ ràng có lai lịch, tuyệt đối không phải phường thảo khấu tầm thường.
Hai mắt Hổ Tử đỏ rực như muốn nứt ra:
“Oanh Nhi, ngươi đừng vào! Chúng ta đến chỗ đại ca ngươi, ta cũng sẽ theo quân — rồi cùng nhau trở về báo thù!”
Ta gào khóc như muốn xé nát cuống họng, m.á.u toàn thân như trào dồn lên tim, đôi con ngươi như muốn nhảy khỏi hốc mắt, cắn chặt răng, khắc sâu cảnh tượng này vào tận xương tủy.
“Tại sao lại g.i.ế.c cả nhà ta? Tại sao lại g.i.ế.c cả nhà ta? Ta muốn báo thù! Ta nhất định phải báo thù!”
Không rõ đã khóc bao lâu, ta và Hổ Tử đều kiệt sức, ngã ngồi bệt xuống đất.
Trong lu nước lớn giữa sân, lộ ra một cái đầu.
Là đường muội — Yến Phượng.
Nàng loạng choạng lao vào lòng ta, khóc òa:
“Tỷ tỷ… nhà mất rồi… tổ phụ tổ mẫu đều c.h.ế.t cả, phụ mẫu cũng không còn nữa… Phượng nhi chỉ còn lại mỗi mình tỷ tỷ mà thôi…Tổ phụ tổ mẫu cùng bá phụ, bá mẫu đã nhét muội vào lu nước, dặn muội chờ tỷ về rồi cùng nhau bỏ trốn…”
Ta ôm chặt lấy nàng, nghẹn ngào đến không thốt nên lời.
Bất kể thuở nhỏ từng có bao nhiêu ân oán, thì nay… nhà tan cửa nát cả rồi.
Hai tỷ muội chúng ta chỉ còn biết nương tựa vào nhau mà sống tiếp.
Hổ Tử vội vàng hỏi:
“Yến Phượng! Khi ca ca ngươi gửi thư về, ngươi có biết trong thư viết gì không? Ngươi biết huynh ấy đang ở đâu không?”
Lúc hắn lên núi, tổ phụ tổ mẫu còn đang ôm lấy Yến Phượng, nghe mẫu thân ta đọc thư của ca ca.
Thân thể Yến Phượng run lên nhè nhẹ, nắm chặt miếng ngọc bội trong lòng.
“Muội không biết…Muội không biết gì cả… hu hu… Tỷ ơi, muội khổ sở lắm…”
Thuở ấy, ta thật lòng tin rằng nàng đau khổ thật.
Nào ngờ… nàng đã cố ý giấu kín thư ca ca gửi về, lại còn lén lấy đi tín vật mà huynh ấy gửi cho ta — miếng ngọc bội.
Từ khi đoạt được ngọc bội ấy, nàng liền giấu giếm cất kỹ, chẳng bao giờ để ta trông thấy lần thứ hai.
Hễ ta hỏi đến, nàng liền ấp a ấp úng, nước mắt nước mũi tèm lem:
“Đó là bảo vật gia truyền mà tổ mẫu để lại cho muội…”
Bảo vật gia truyền ư?
Sao trên mặt ngọc… lại khắc chữ “Oanh”?
Khi ta sinh ra, giữa đám hoa lựu có một con chim oanh vàng đáp xuống, tiếng hót véo von thanh nhã.
Mẫu thân vốn đang khó sinh, vừa nghe được âm thanh ấy liền lấy lại tinh thần, cố gắng vượt qua cơn đau, sinh ra ta giữa lằn ranh sinh tử.
Vì vậy, bà đặt tên ta là “Oanh Nhi”.
Yến Phượng vốn không biết chữ, đâu hay rằng chiếc ngọc ấy đã được khắc tên ta.
Ta đưa nàng vào phủ Quốc công, một là để có chỗ dung thân, hai là để lần theo tung tích của ca ca, và quan trọng nhất — là đòi lại thứ thuộc về ta.
Chu ma ma mua ta, Yến Phượng, và một cô nương mặt tròn như trứng ngỗng, tên gọi Nguyệt Nhung.
Nàng từng là tiểu thư nhà quan.
Nguyệt Nhung dung mạo xinh đẹp, nhưng lại lạnh nhạt kiêu ngạo, hiếm khi chủ động nói chuyện với chúng ta.
Lúc hoàng hôn buông xuống, Chu ma ma đưa ba người chúng ta vào phủ Ngụy Quốc công.
“Lũ nha đầu nghe đây, phủ Ngụy Quốc công nhà ta coi trọng nhất là quy củ. Dù các ngươi chỉ là nha hoàn thô sử, nhưng học cho tốt quy củ, thì chẳng lo không có đường ra.”
“Sau này có thể thăng lên tam đẳng, nhị đẳng, nhất đẳng. Nếu có phúc khí, còn có thể vào hầu hạ lão thái quân, phu nhân, tiểu công gia hay các tiểu thư — đều là điều tốt lành, phải cố mà làm!”
“Ngươi xem, bên cạnh lão thái quân có Lộng Tình, bên cạnh tiểu công gia có Thập Nguyệt, cả hai đều đi lên từ hàng tiểu nha hoàn như các ngươi, giờ đã là phó tiểu thư trong phủ.”
“Nói về thân phận, còn cao quý hơn cả mệnh phụ của những nhà nhỏ bên ngoài.”