Chương 3
4
“Ý tôi nói chính là điều anh mong muốn đó. May mà chúng ta mới chỉ đính hôn, chưa đăng ký kết hôn, nên hôn nhân của chúng ta xem như chấm dứt.”
“Từ nay về sau giữa tôi và anh không còn bất kỳ quan hệ gì nữa.”
“Anh đừng mang gánh nặng tâm lý, tuy ba tôi dùng mạng cứu anh, nhưng anh không có nghĩa vụ phải cưới tôi.”
“Giống như anh từng nói, đó chỉ là một tai nạn.”
“Ba tôi là người tốt, ai ngã xuống sông ông cũng sẽ nhảy xuống cứu, chứ không có ý dùng mạng để ép anh cưới tôi.”
“Con gái ông ấy cũng không đến mức kém cỏi phải dùng cách đó mới gả đi được!”
Nghe tôi nói vậy, trên mặt Mạnh Sĩ An hiện lên vẻ lúng túng và áy náy.
“Tôi… tôi không có ý đó… tôi rất biết ơn chú Mạnh…”
“Không cần biết ơn, ông ấy đã mất rồi, những lời này giờ chẳng còn ý nghĩa gì nữa.”
Tôi quay đầu, bước vào trong nhà ga.
Mạnh Sĩ An cứ tưởng tôi đã bị hắn thuyết phục, đồng ý quay về làng.
Thở phào một hơi, rồi đuổi theo.
“Tôi… tôi đưa cô về làng… chuyện theo quân, cho tôi thêm vài ngày…”
Đến giờ phút này, Mạnh Sĩ An vẫn không tin tôi thật sự muốn chia tay hắn.
Tôi cũng chẳng buồn giải thích nữa.
“A!”
“Xoảng!”
Tề Dung Dung cố ý làm đổ cái bàn, bát mì tôi mới ăn được mấy đũa liền đổ hết lên người cô ta.
Mạnh Sĩ An lập tức dừng bước, quay lại chăm sóc “vầng trăng sáng” của hắn.
“Khi về đến nhà nhớ gọi điện cho tôi!”
Hắn móc ra tờ 100 tệ nhét vào tay tôi, rồi quay người vội vã chạy về.
Tôi sải bước tiến vào nhà ga.
Dù tự nhủ không được khóc.
Nhưng nước mắt vẫn cứ chảy ra không kiểm soát được.
Tạm biệt, Mạnh Sĩ An.
Từ giây phút này, anh đã bị xóa khỏi cuộc đời tôi.
Từ nay trời cao biển rộng, niềm vui, nỗi buồn, giận dữ hay đau khổ của tôi đều không còn liên quan gì đến anh nữa.
—
5
Tàu lửa lắc lư suốt ba ngày hai đêm, cuối cùng cũng đến Thâm Thành.
Kiếp trước tôi từng đến Thâm Thành vài lần.
Nhưng lúc đó Thâm Thành đã là một thành phố phồn hoa sánh ngang với “Bắc – Thượng – Quảng”, không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn có tiếng trên trường quốc tế.
Nhưng hơn 40 năm trước, Thâm Thành chỉ mới bắt đầu phát triển từ một làng chài nhỏ.
Năm 1984, chính là thời điểm Thâm Thành tràn đầy sức sống, sắp bước vào giai đoạn phát triển bùng nổ.
Kiếp này tôi chọn đến Thâm Thành lập nghiệp, chính vì nơi đây là thiên đường để khởi nghiệp và theo đuổi giấc mơ.
Tôi bước đi trên đường phố Thâm Thành.
Dù giờ phút này cảnh quan vẫn còn nghèo nàn, không thấy những toà nhà cao tầng hay xe sang tấp nập.
Nhưng dòng người đông đúc, đủ loại giọng nói mang âm điệu vùng miền vang lên khắp nơi.
Đó đều là những người trẻ đến Thâm Thành để theo đuổi ước mơ.
Vài chục năm sau, trong số họ sẽ có rất nhiều người trở thành doanh nhân nổi tiếng, tỷ phú giàu có.
Và tôi may mắn là một trong số đó.
Tôi tin rằng, với lợi thế của một người tái sinh, tôi nhất định cũng sẽ thành công!
Không thể để uổng phí cơ hội mà ông trời đã cho tôi làm lại lần nữa.
Tôi đến Thâm Thành để làm gì, tôi đã có kế hoạch sẵn.
Mặc dù hiện tại ở Thâm Thành có rất nhiều nhà máy.
Có nhà máy quốc doanh, cũng có cả liên doanh và vốn nước ngoài.
Nhưng tôi chưa từng nghĩ sẽ vào nhà máy làm.
Bởi vì tôi chỉ có trình độ trung học cơ sở, dù có sống lại thì cũng không thể đột nhiên biến thành thiên tài khoa học kỹ thuật.
Tôi không thể làm ra máy tính, điện thoại hay chip vi mạch cao cấp.
Huống hồ vốn liếng của tôi rất hạn hẹp, chỉ có 1.000 tệ.
Tôi chỉ có thể làm những loại hình kinh doanh có rào cản thấp, vốn đầu tư ít nhưng vẫn có thể kiếm ra tiền.
Dịch vụ!
Nói cụ thể hơn chính là mở quán ăn.
Thời điểm này tuy đất nước đã mở cửa, cho phép người dân làm ăn buôn bán.
Gọi những người kinh doanh nhỏ lẻ là “cá thể hộ”.
Nhưng do tư tưởng vẫn còn bảo thủ, phần lớn người trong xã hội vẫn cho rằng làm “cá thể hộ” là không chính đáng, thậm chí còn cảm thấy xấu hổ.
Con đường tốt nhất vẫn là đi bộ đội, hoặc vào nhà máy.
Tốt nhất là vào được nhà máy quốc doanh.
Cái đó gọi là “bát cơm sắt”!
Vì vậy kinh tế tư nhân còn rất hiếm.
Trên đường phố, ngoài nhà hàng quốc doanh, bưu điện, hợp tác xã và cửa hàng thực phẩm thì hầu như không thấy cửa tiệm tư nhân nào khác.
Lấy ví dụ như nhà hàng – trong các nhà hàng quốc doanh, nhân viên phục vụ đều là công nhân biên chế chính thức.
Nên hoàn toàn không có khái niệm “khách hàng là thượng đế” hay “dịch vụ nụ cười”.
Phục vụ viên thì kiêu căng ngất trời.
Cửa thì khó vào, mặt thì khó coi, lời thì khó nghe.
Thế nên dù trong túi có tiền, nhiều người vẫn không muốn đến ăn ở các nhà hàng quốc doanh.
Vì quá dễ “ăn một bữa cơm mà đầy một bụng tức”.
Nên kế hoạch khởi nghiệp của tôi chính là bắt đầu bằng việc mở một quán ăn nhỏ.
Địa điểm tôi chọn là khu công nghiệp Thử Khẩu ở Thâm Thành.
Tôi đếm thử, ở đây đã có hơn 100 nhà máy, tổng số công nhân lên đến năm, sáu vạn người.
Hầu hết là dân lao động ngoại tỉnh, sống độc thân, không có điều kiện nấu nướng.
So với trong nội địa, thu nhập của công nhân ở đây cao hơn.
Thậm chí có người một tháng kiếm được 200 tệ.
Dù nhiều nhà máy có căng-tin, nhưng có tiền rồi thì ai cũng muốn cải thiện cuộc sống.
Ăn cái gì ngon hơn.
Vì vậy ngành ẩm thực tuyệt đối là nhu cầu thiết yếu.
Huống hồ tôi còn có lợi thế tuyệt đối.
Kiếp trước sau khi theo quân, tôi luôn làm việc trong phòng hậu cần của đơn vị, chuyên phụ trách nhà ăn.
Binh lính trong quân đội đến từ khắp mọi miền, khẩu vị ăn uống cũng đủ loại.
Mà tôi thì ở nhà không có hơi ấm, không ai để trò chuyện.
Nên niềm vui duy nhất chính là nấu ăn, là nghiên cứu các món ăn đặc sản, thực đơn nổi tiếng khắp vùng miền.
Món Hoa Bắc, món Tứ Xuyên, món Quảng Đông, món Phúc Kiến, món Tô Châu, món Chiết Giang, món Hồ Nam, món An Huy…
Không có món nào là tôi không biết nấu.
Lẩu, nướng, mì, tôi đều rất giỏi.
Ngay cả món Tây và tráng miệng cũng không làm khó được tôi.
Thời này giá thuê mặt bằng rất rẻ.
Tôi bỏ ra 150 tệ thuê được một mặt bằng ngay mặt đường, số tiền còn lại dùng để mua nồi niêu xoong chảo và nguyên liệu nấu ăn.
“Quán Ăn Diệp Tử” chính thức khai trương!