2
Dương đại nương căn bản không thèm nghe giải thích, cứ thế đẩy ta ra ngoài:
“Sống c.h.ế.t mặc kệ nó, nhà này nuôi không nổi, đi đi đi!”
Ta “phịch” một tiếng quỳ xuống trước mặt bà, cầu xin được thu nhận.
“Ngươi… ngươi quỳ cái gì, để người ta thấy lại tưởng nhà ta ăn h.i.ế.p ngươi, đứng… đứng lên.”
Ta vẫn quỳ không nhúc nhích, nghẹn ngào nói:
“Con ăn ít, nói cũng ít, việc gì cũng có thể học, buổi tối chỉ cần một gian nhà là được. Xin người.”
Sau một lần c.h.ế.t đi sống lại, ta đã hiểu rõ: Người như ta — không quyền không thế, yếu đuối vô năng — đến thế gian này, vốn dĩ chẳng mang theo ý nghĩa gì.
Nhưng… không có ý nghĩa thì sao?
Sinh mạng này bị kẻ khác khinh rẻ, thì ta càng phải quý trọng lấy.
“Phiền… phiền c.h.ế.t mất, khóc lóc cái gì, lão già, ông mang về thì tự mà lo.”
Dương đại nương quăng cán bột xuống đất, giận dữ bỏ đi.
Lưu lão ông đỡ ta dậy, nói:
“Đại nương ngươi miệng d.a.o lòng đậu, ngươi nhẫn nhịn một chút là được.”
“Đa tạ.”
Thế là ta được họ thu nhận.
Ta không rành chuyện bếp núc, bởi ở nhà mẹ đẻ, đích mẫu không cho chúng ta làm việc nặng. Ta chỉ biết thêu thùa nữ công, chăm lo bữa ăn.
Dương đại nương càng giận dữ:
“Quét kiểu gì thế này, áo quần mới giặt phơi đã dính đầy bụi!”
Bà đẩy ta ra, thành thạo hắt nước khắp sân, ta đứng bên cạnh học theo, buổi chiều đã biết cầm chổi quét dọn.
Lúc Dương đại nương gói hoành thánh, ta cũng đứng một bên quan sát. Bà lườm ta một cái:
“Ngươi trừng mắt cả buổi thế rồi học được chưa?”
Dù nói thế, nhưng ta biết bà gói chậm hơn mọi khi, lại còn tỉ mỉ hơn hẳn.
“Đã học được rồi.”
Ta gói mấy cái cho bà xem, bà nhìn ta gói được bảy tám cái liền đuổi ta:
“Được rồi được rồi, thông minh quá nhỉ, mau đi đi, đừng cản trở ta làm việc.”
Bà đuổi ta vào phòng, không cho ta vào bếp nữa.
Đến tối ăn cơm, bà luộc hai quả trứng gà, ném cho ta một cái:
“Tiểu Điền ăn không hết, ngươi ăn đi, nhìn ngươi gầy nhom thế kia, có ngày bị gió cuốn đi mất, ta chẳng đi tìm đâu.”
Ta vừa bóc trứng vừa thấy sống mũi cay cay.
“Mai lúc đi bán hoành thánh, mua một thang thuốc gà về, tối nay ta g.i.ế.c con mái hầm lên.”
“Thuốc gà” là một loại thuốc bổ, đem hầm cùng gà mái thì rất tốt cho sức khỏe.
Lưu lão ông ngạc nhiên:
“Trong nhà chỉ có một con gà mái đẻ trứng, sao lại g.i.ế.c nó?”
Dương đại nương đá ông một cái:
“Bảo mua thì mua, lắm lời cái gì. Trong thuốc nhớ cho thêm chút nhân sâm vụn, đừng có keo kiệt.”
Lưu lão ông vâng lời, rồi hỏi ta có muốn đi cùng không, tiện thể mua cho ta một cái áo bông.
Ta định thản nhiên từ chối, nhưng nước mắt lại không kìm được mà rơi xuống.
Hôm sau, Dương đại nương đứng ngay cạnh ta, canh ta uống hết hai bát canh, ăn xong nửa con gà mới chịu rời đi.
“Phần còn lại để mai ăn tiếp.”
Trước khi đi, bà vẫn lầm bầm:
“Không biết ai tạo nghiệt, mới sinh xong đã bị đuổi khỏi nhà…”
Thân thể ta dần khá lên, việc nhà cũng quen tay dần.
Ta làm việc rất nhanh nhẹn, việc đồng áng cũng học được không ít. Khi dùng xẻng xới đất, tay ta bị phồng lên mấy chỗ.
Bóng nước vỡ ra lại tiếp tục phồng lên, dần dà liền thành vết chai.
Có vết chai rồi, lòng bàn tay cũng không còn đau nữa.
Ta gói hoành thánh cũng rất nhanh, nhanh hơn cả Dương đại nương.
Chỉ là, ta thấy mùi vị có phần tầm thường, bèn bàn với bà liệu có thể đổi chút gia vị nhân bánh.
Bà mắng ta một trận, nhưng rồi vẫn theo lời ta, đập thêm ba quả trứng gà, cho thêm một muỗng bột vào nhân thịt.
“Ăn ngon hơn chứ ạ?” – ta hỏi.
Dương đại nương ăn hai cái hoành thánh, mím môi không nói lời nào. Nhưng sáng hôm sau, khi trộn nhân, bà gọi ta đến cùng nêm.
Quầy hoành thánh của Lưu lão ông ngày một đắt hàng, trước kia phải đến trưa mới bán xong, giờ còn chưa đến giờ Thìn đã hết sạch.
“Hay là, chúng ta dựng cái lều, bán đúng giờ đúng chỗ mỗi ngày, buôn bán chắc càng phát đạt.”
Lưu lão ông lắc đầu:
“Phố bên này không có chỗ, hơn nữa trong trấn hoành thánh bán cũng đầy.”
Dương đại nương bỗng quay sang hỏi ta:
“Ngươi nói, nên bán ở đâu?”
“Trước cổng học đường, chỗ ấy ít quầy hàng, chắc có thể tìm được chỗ dựng lều.”
Vài ngày sau, Lưu lão ông tìm được chỗ, chúng ta cùng nhau dựng lều, quả nhiên, buôn bán rất tốt.
Lũ trẻ trước khi đến học đường ghé ăn sáng, trưa ngán cơm nhà đem đến cũng đến ăn một bát, tan học về tối cũng tụm năm tụm ba vào ăn rồi mới chịu về.
Lưu lão ông cười tươi đến nỗi nếp nhăn giãn cả ra. Ta và Dương đại nương, sau khi làm xong việc đồng áng, cũng đến giúp ông một tay.
Tết đến, Dương đại nương may cho ta và Tiểu Điền mỗi người một bộ áo bông mới.
“Con bé này khôi ngô thật đấy, chỉ tiếc là hơi gầy. Sau này phải ăn nhiều vào.” – Lưu lão ông cười bảo.
“Trẻ nhà nghèo, xinh đẹp là tai họa.” – Dương đại nương nói.
“Không phải đâu! A di không phải tai họa!” – Tiểu Điền ôm lấy cổ ta, bảo vệ ta.
Dương đại nương trừng mắt lườm Tiểu Điền:
“Ngươi biết cái gì.”
Ta hiểu nỗi lo của bà. Dung mạo ta, trong các tỷ muội không tính là xuất chúng, nhưng ở nơi này lại quá nổi bật.
Ta nghĩ một lát, rồi bế Tiểu Điền lên:
“Người nói đúng, vậy… hay là, sau này cứ nói con là nương của Tiểu Điền đi.”
Có hài tử, tức là có trượng phu, người ngoài sẽ không biết phụ thân của Tiểu Điền đã mất. Ta nghĩ, cách này chắc hữu hiệu.