Chương 3
5
Khắp kinh thành đều có người theo dõi, chuyện về phía Nam không tiện phô trương. Mọi thứ đều được chuẩn bị gấp rút trong sự ẩn mình.
Tiếng trống chiến vô hình, gõ lên căng thẳng trong lòng.
Trước khi đi, ta cầu một chiếc bùa bình an, cho vào túi thơm, và một thanh bảo kiếm cha ta treo trong nhà, mang đến nhà họ Triệu.
Người mở cửa chỉ có một bà lão, tuổi đã cao tai lãng, nói mấy lần vẫn nghi ngờ lắng nghe.
“A? Cô nương là người nhà ai?”
Ta lắc đầu, nói ngắn gọn, chỉ xin bà giao đồ cho Triệu Ký Thành là được.
Nói xong ta liền rời đi, bà lão thấy hoa văn tinh xảo trên hộp kiếm, hiểu lầm ý, vội vàng nói sau lưng: “Ôi chao, đại nhân nhà chúng ta không lấy vợ, e là phụ lòng cô nương rồi!”
Ta cúi người vào xe, không đáp lời.
Bảo kiếm tặng anh hùng, chỉ là báo ân mà thôi.
Sức ta yếu kém, chỉ có thể gửi gắm hy vọng vào những người trung trinh này có thể báo đáp quốc gia mà thành công.
Xe ngựa “thăm thân” chở đầy sách cổ và tranh vẽ quý hiếm đi về phía nam. Ngày trước rất nhiều danh tích bị hủy trong chiến hỏa, thật đáng tiếc. Binh lính cổng thành kiểm tra rất nghiêm ngặt.
Ta mê sưu tầm thư họa, cả kinh thành ai cũng biết, họ thấy những thứ này cũng không nghi ngờ gì.
Huống chi Lục Giai còn ở lại kinh thành, ta chỉ là một tiểu nữ tử, không có gì đáng cảnh giác.
Nhưng thấy binh lính mắt sáng quắc lật xem từng món một, trong lòng ta vẫn có chút bất an. Thành đô từ khi nào lại giới nghiêm xe ngựa của các thế gia đến mức này, lẽ nào tai mắt của các phiên vương đã nghe phong thanh rồi sao.
Đến khi kiểm tra xong xuôi, vừa mới thở phào nhẹ nhõm, đột nhiên lại có người chặn lại, mời ta xuống xe, cần khám người.
Lòng ta chùng xuống.
Trong người còn có ấn tín.
Lão quản sự lập tức ngăn cản: “Tiểu thư nhà ta thân phận tôn quý, sao có thể chịu nhục!”
“Trên có lệnh, bất kể công hầu.” Tên Vệ úy mặt không cảm xúc, tiến lên một bước, tay đặt lên vỏ đao.
Tên vệ sĩ bên cạnh liếc nhìn ra sau, kéo hắn, nói nhỏ: “Hay là bỏ qua cái này đi, đây là nữ nhi Chương gia, sau lưng còn có Trung thư lệnh nhìn đó.”
Cữu cữu ta không yên tâm, cưỡi ngựa theo sau không xa không gần.
Không ngờ tên Vệ úy kia hoàn toàn không lo lắng, hất tay ra, lạnh lùng lặp lại: “Đã nói rồi, trên có lệnh, bất kể công hầu!”
Không khí lập tức căng như dây đàn.
Ta cứng đờ ngồi trong xe ngựa, qua rèm trúc, nhanh chóng suy nghĩ phải làm sao.
Dù có giấu ấn tín vào ngăn bí mật của xe ngựa cũng khó bảo đảm không bị tìm ra. Cữu cữu lúc này ra mặt cũng dễ làm mọi chuyện lớn chuyện, gây sự chú ý.
Đang lúc luống cuống, bên ngoài truyền đến một giọng nói trong trẻo: “Trên có lệnh? Không biết là lệnh của ai, quân sĩ giữ thành như chúng ta lại chưa từng nghe qua.”
Rèm trúc lọt vào ánh sáng mỏng manh, ta thấy Triệu Ký Thành vững vàng bước đến, thân hình cao gầy đứng thẳng như tre xanh.
Tên Cấm quân Vệ úy mím chặt môi, chức quan hai người tuy không bằng nhau, nhưng Cấm quân nắm giữ việc bảo vệ nội hoàng thành, về lý thì không quản được cổng thành của ngoại quân.
Không đợi Vệ úy đưa ra danh nghĩa của Hoàng tử Lưu Thiệu, Triệu Ký Thành đã hỏi trước: “Là bệ hạ, hay là Thái tử? Tướng quân không nể mặt thế gia như vậy, giới nghiêm cổng thành, người không biết, còn tưởng vị trên của Tướng quân có ý đồ khác.”
Đây là ám chỉ Lưu Thiệu có ý đồ mưu phản.
Vệ úy sắc mặt khó coi, nghiến răng trừng mắt: “Triệu Ký Thành, mới vào quan trường, đừng quá đắc tội người.”
Triệu Ký Thành thản nhiên gật đầu: “Thật hổ thẹn, Triệu mỗ ngu dốt, không hiểu làm quan, chỉ biết tôn Thiên tử làm chủ, giữ lệnh Thiên tử, không để bách tính lo sợ mà thôi.”
Nói xong, hắn bất chấp ánh mắt châm chọc xung quanh, giơ tay cho người thả đi.
Từng hàng giáo dài dời đi, nhường ra một con đường hẹp, xe ngựa lại tiếp tục lăn bánh, cách rèm trúc, ta và Triệu Ký Thành, ánh mắt lướt qua nhau.
6
Ra khỏi thành, qua vài cửa ải, người dần thưa thớt.
Thị vệ trưởng hộ tống ngước nhìn bầu trời bị hai bên sườn núi kẹp lại thành một đường, quay đầu ngựa nói gì đó với lão quản sự.
Lão quản sự nhíu mày, chạy lẹ đến trước xe ngựa, “Tiểu thư, e là phải chia làm hai đường đổi đường đi rồi.”
Đổi đường?
Lúc này đã ra khỏi thành bảy tám ngày, tiết Mộ Xuân, mặt trời nóng lên, làm người ta lơ mơ buồn ngủ. Ta vén rèm xe, nhìn về phía trước.
Vốn dĩ chuyến này đã đi đường nhỏ, qua Đại Yển Khẩu, rồi xuôi theo Hoài Thủy đi thuyền đến Từ Châu, khi đó đến địa phận Giang Nam sẽ dễ đi.
Đột nhiên chia làm hai đường, lẽ nào phía trước có biến?
Lão quản sự gật đầu, giữa hai hàng lông mày nhăn lại vẻ lo lắng.
“Viên tướng quân nói chúng ta từ lúc ra khỏi thành đã không ổn, e là bị người ta theo dõi, giờ đi đến Đại Yển Khẩu, dễ vào khó lui, ngay cả một con chim cũng không thấy, e có phục binh.”
“Để bảo toàn an nguy cho tiểu thư, xin tiểu thư đổi quần áo với thị nữ, tách ra một đường để thu hút sự chú ý, rồi đến dịch trạm bến đò hội hợp.”
Ta cúi mắt do dự.
Thị nữ Nga Nhi nắm lấy mu bàn tay ta, “Tiểu thư, nô tỳ nguyện ý.”
Không đợi ta mở lời, nàng đã gật đầu với lão quản sự, buông rèm cửa, nhanh tay cởi cúc áo cho ta.
“Chuyến đi này gian nan, phu nhân đã dặn dò trước, nô tỳ tự nguyện đi theo, chính là vì không yên tâm về tiểu thư.”
7
Thấy ta vùng vẫy, nàng nghiêm mặt ngăn lại: “Tiểu thư quên lời phu nhân dặn dò sao? Huống hồ chia đường mà đi, cũng là họa phúc chia đôi, nô tỳ biết tiểu thư quan tâm, nhưngviệc cấp thì phải theo quyền biến, chớ vì thân phận hèn mọn này của nô tỳ mà lỡ mất thời cơ, chậm trễ đại sự.”
Ta ngây người, nhìn Nga Nhi.
Kiếp trước tỳ nữ bên cạnh ta, người còn sống đi theo ta trốn về phương Nam cũng chỉ có một mình Nga Nhi. Mặc dù vậy, nàng vẫn vì đường đi khó khăn phải cõng ta qua bùn lầy, mắc bệnh ở chân, đến phương Nam không lâu thì bệnh mà chết.
Ta làm sao có thể lại hại nàng rơi vào hiểm cảnh.
“Tiểu thư! Đại sự là trên hết!” Nga Nhi lo lắng nói.
Trong lòng thở dài nặng nề. Ta cắn răng, nén lại nước mắt, buông tay xuống.
Nga Nhi nhanh chóng đổi xong quần áo của nhau, đội mũ che mặt cho ta.
Ta căn dặn tha thiết: “Ngàn vạn lần phải cẩn thận.”
Nàng mỉm cười, qua lớp voan mỏng, không nhìn rõ trong mắt có sợ hãi hay không.
Bên ngoài có tiếng giục giã truyền đến, đành phải vội vã chia tay. Lợi dụng lúc trời chạng vạng, một đội đi đường Đại Yển Khẩu, đội kia lặng lẽ tách ra đi đường núi bên cạnh.
Không biết đã đi bao lâu, đêm đã khuya.
Ánh trăng tái nhợt chiếu vào bóng xe ngựa mệt mỏi nặng nề, lão quản sự bảo mọi người cố gắng, chờ sáng mai xuống núi rồi nghỉ.
Ta cũng hiểu, lúc này không thể lơi lỏng cảnh giác. Nhưng xung quanh quá yên tĩnh, ngay cả tiếng gió cũng không có.
Mấy ngày liền ta đã kiệt sức, vô thức dựa vào thành xe, mí mắt cứ đánh vào nhau.
Chắc chỉ mới nhắm mắt một lát, bên ngoài đột nhiên ngựa hí, lòng ta kinh động, bỗng mở mắt. Phía trước vài bóng đen nhảy ra dưới ánh trăng, đao dài lạnh lẽo, chém về phía đội ngựa mở đường phía trước.
Lão quản sự quyết đoán, phóng ngựa xông đến, đạp cửa xe kéo ta ra phía trước, ghìm cương quát khẽ: “Đi!”
Tên thổ phỉ cầm đầu mắt sói hung ác, nhạy bén nhìn tới, giơ đao chỉ: “Bên này, vào rừng!”
Gió đêm đến muộn, lướt qua má, đau nhói như dao cắt.
Một mũi tên, bắn vào vai lão quản sự, ông ta vã mồ hôi lạnh, ôm ta ngã khỏi ngựa.
“Dịch bá…” Ta lo lắng kêu lên.
Không kịp nói nhiều, Dịch bá lảo đảo đẩy ta xuống một cái dốc thấp, bên dưới lót lá thông khô, ông dùng sức nhét ta vào trong hốc cây, tạo thành chỗ che chắn tự nhiên.
Tiếng vó ngựa truy đuổi dần đến gần.
“Đừng lên tiếng.”
Dịch bá hơi thở không ổn định dặn dò ta lần cuối, nói xong vẫn ngồi lên ngựa, dẫn quân truy đuổi đi thẳng. Đầu ta rung động, tiếng rượt đuổi như sóng biển, lớp này nối tiếp lớp khác.
Ta co quắp trong hốc cây, tay chân lạnh buốt tê dại, nghe tiếng la hét chém giết bên trên, cắn chặt mu bàn tay.
Rất lâu, rất lâu, trong rừng mới yên tĩnh lại. Có gió thổi qua ngọn thông, rào rào như tiếng mưa.
Một giọt, một giọt, thấm vào hốc cây.
Không phải mưa.
Màu đỏ tươi chói mắt.
Ta bò ra khỏi hốc cây, tay dính đầy máu, quấn chặt áo choàng, không dám quay đầu nhìn lại.
Sự hèn nhát khóc lóc không cứu vãn được mạng sống của họ.
Chỉ có tiến lên, tiến lên.
8
Sau trận giết chóc, sương sớm bốn phía cũng nhuốm mùi máu tanh.
Ta mò mẫm xuyên qua rừng, trong lúc hoảng sợ mệt mỏi, chạm vào một thân cây, định dựa vào, nhưng “thân cây” chợt đung đưa. Giật mình, nhìn kỹ, là một thi thể bị treo cổ.
Trong chốc lát, ta rùng mình, tóc gáy dựng đứng, lùi lại, không ngờ cây sát bên cũng treo một thi thể nữ.
Ta lùi ra bảy tám bước, tầm nhìn mở rộng, ánh sáng từ rừng rậm xám xịt chiếu vào, nhìn rõ, hai bên lối đi nhỏ, cách vài cây, đều treo những người tự vẫn. Mặt vàng bủng, gầy trơ xương.
Gió thổi qua, sương khói bay ngang, thi thể gầy guộc đung đưa, như oan khuất không chỗ tỏ bày, hóa thành những chiếc chuông trên những tháp cây tế cáo trời.
Mắt chữ O mồm chữ A đã không thể diễn tả được tâm trạng của ta. Mơ chăng? Hay là ta cũng đã chết, đang trên đường Hoàng Tuyền?
Bỗng nhiên, bên tai truyền đến một tiếng thở dốc ai oán, ta như chim sợ cành cong, suýt nữa kêu lên.
“Cứu… cứu mạng…”